Giải pháp phát triển bền vững ngành dệt may, da giầy đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035

15:27 - 09/12/2024

Th.sỹ Hà Hải Long

 Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương

Để từng bước cụ thể hoá“Chiến lược phát triển ngành Dệt May và Da Giầy Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035” và phấn đấu thực hiện mục tiêu đưa ngành Dệt May và Da Giầy phát triển bền vững, phù hợp với xu hướng phát triển của ngành Dệt May và Da Giầy thế giới và khu vực, phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy được tiềm năng, lợi thế của ngành trong đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu là rất cần thiết.

Từ khóa: phát triển bền vững, xanh hóa, kinh tế tuần hoàn, dệt may, da giầy

1. Đặt vấn đề

 Trong các giai đoạn phát triển, với chính sách đổi mới, mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, các doanh nghiệp dệt may và da giầy Việt Nam đã chủ động, sáng tạo tìm hướng đi thích hợp như đầu tư công nghệ mới, thiết bị hiện đại từ các nước tiên tiến, hợp tác, liên doanh, thức đẩy sản xuất để tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Trong 03 năm gần đây (2021-2023), ngành Dệt May và Da Giầy Việt Nam tiếp tục có những bước phát triển đáng khích lệ, duy trì được đà tăng trưởng vững chắc và ổn định với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đạt 5,4%/năm trong giai đoạn 2021-2023, tương đương với tốc độ 5,5%/năm của giai đoạn 05 năm  2016-2020.

Các năm từ 2020-2023 là năm đặc biệt khó khăn của ngành Dệt May và Da Giầy Việt Nam khi thị trường có nhiều biến động phức tạp, khó dự báo. Dưới tác động của Đại dịch Covid-19, bất ổn về kinh tế-chính trị thế giới, kéo theo lạm phát, sức mua giảm tại nhiều thị trường trên thế giới,… ngành Dệt May và Da Giầy là một trong những ngành hàng chịu thiệt hại trực tiếp lớn nhất. Năm 2020 là năm đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt May và Da Giầy tăng trưởng âm (giảm 9,75%) sau 10 năm tăng trưởng liên tục. Tuy nhiên, với kim ngạch xuất khẩu đạt được trong năm 2020, ngành Dệt May và Da Giầy Việt Nam vẫn đạt gấp trên 1,3 lần và năm 2023 gấp 1,5 lần so với năm 2015 và vẫn là điểm sáng trong các hoạt động xuất khẩu của cả nước.

Từ năm 2010 đến nay, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt May của Việt Nam đã tăng gấp 2,9 lần, từ 13,8 tỉ USD năm 2010 lên 40,3 tỉ USD năm 2023.

Các sản phẩm may mặc (mã HS 61 và 62), đóng góp đến 80% giá trị xuất khẩu của hàng dệt may nói chung. Xét theo cơ cấu sản phẩm mã HS 4 số, nhóm 10 sản phẩm may mặc có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nước ta cho thấy (áo khoác nam nữ, quần áo các loại, quần áo thun, áo jacket,…)  các sản phẩm may mặc chủ lực là những mặt hàng đòi hỏi lao động tay nghề cao, có các công đoạn may phức tạp. Như vậy, trong ngắn hạn, tay nghề thợ may vẫn đang là một lợi thế của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam, khi mà máy móc vẫn chưa thay thế được con người trong các công đoạn may phức tạp, đòi hỏi sự khéo léo và kỹ năng cao của con người.

Xét theo thị trường xuất khẩu, Mỹ, EU và Nhật Bản là ba thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam. Tổng cộng 05 năm từ 2016 đến 2020, Mỹ đã nhập khẩu gần 66,25 tỷ USD hàng may mặc từ Việt Nam (chiếm 44,9%), EU gần 19 tỷ USD (12,8%), Nhật Bản 17,3 tỉ USD (chiếm 11,8%), và Hàn Quốc trên 14,4 tỉ USD (chiếm 9,8%),…

Giai đoạn 03 năm 2021-2023, thị trường Mỹ và EU tiếp tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với tỷ trọng chiếm 46,7% và 13,1% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả nước.

Nhìn xu hướng từ 2010 đến năm 2023 có thể thấy, Mỹ và EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam trong suốt 13 năm qua. Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc tiếp tục duy trì xu hướng nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam nhiều hơn so với các thị trường khác.

Giai đoạn 2010 - 2023, ngành Da Giầy Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu tới hơn 100 nước, trong đó có khoảng 50 nước đạt giá trị trên 1,0 triệu USD; các hoạt động xuất khẩu của ngành tăng trưởng ổn định theo các năm dẫn đến duy trì được lợi thế cạnh tranh tại các thị trường truyền thống. Hiện 05 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, ổn định chiếm trên 80% giá trị xuất khẩu trong 05 năm gần đây là Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.

Thị trường Mỹ và EU vẫn là 02 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đối với mặt hàng da giầy xuất khẩu, chiếm khoảng 57,1% tổng giá trị xuất khẩu của ngành. Tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép từ năm 2015 đến năm 2023 sang Mỹ đạt 52,8 tỷ USD, đạt mức trung bình trên 5,8 tỷ USD/năm và chiếm tỷ trọng 34,6% tổng kim ngạch xuất khẩu giầy dép. Mặt hàng túi xách, ví, vali, mũ, ô, dù… đạt 12,7 tỷ USD đạt mức trung bình 1,4 tỷ USD/năm. Xét chung tổng kim ngạch xuất khẩu ngành da giầy sang thị trường Mỹ từ năm 2015 đến nay đạt trên 65,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 35,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành và đạt trung bình gần 7,3 tỷ USD/năm.

Thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu quan trọng đối với mặt hàng da giầy của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU từ năm 2015 đến 2023 đạt 39,2 tỷ USD, tương đương 4,35 tỷ USD/năm. Tính chung từ năm 2015 đến nay, thị trường EU chiếm khoảng 21,4% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành da giầy Việt Nam.

Năm 2020 doanh nghiệp khu vực FDI xuất khẩu 13,25 tỷ USD giầy dép và 2,12 tỷ USD túi-ví-cặp, chiếm 79,1% về giầy dép và 68,2% về túi-ví-cặp. Tổng kim ngạch xuất khẩu do doanh nghiệp FDI thực hiện là 15,37 tỷ USD, chiếm 77,3%; Sang giai đoạn 2021-2023, tổng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI vẫn đạt mức cao, khoảng 57,4 tỷ USD, chiếm tới 78,9% tổng xuất khẩu toàn ngành. Từ các thống kê trên cho thấy cho thấy mức độ chênh lệch về tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước so với doanh nghiệp khu vực nước ngoài còn khá cao.

Một số Hiệp định thương mại tự do ký kết trong năm 2020 như EVFTA[1]; Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); UKVFTA[2] sẽ có hiệu ứng tốt trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu da giầy trong thời giản tới. Trong đó, tác động rõ rệt nhất là EVFTA với ưu đãi thuế suất nhập khẩu về 0% đối với một số mặt hàng da giầy, như giầy thể thao, giầy vải đang là lợi thế đối với xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam vào thị trường EU.

Ngành Dệt May và Da Giầy đạt tăng trưởng khá tốt trong hơn 10 năm qua, tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong phát triển, như: vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn vải nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp do phương thức sản xuất gia công dựa vào nguồn lao động giá rẻ trong phân khúc may chiếm trên 70%, đến 2/3 lượng sợi sản xuất trong nước lại phải xuất khẩu trong bối cảnh thị trường thế giới liên tục thay đổi và giá cả liên tục giảm, năng lực sản xuất còn thấp so với các nước trên thế giới, nguồn nhân lực có chất lượng cao còn thiếu.... và đặc biệt là xu hướng chuyển đổi xanh, phát triển bền vững theo hướng kinh tế tuần hoàn.

Do Kinh tế tuần hoàn là xu hướng phát triển tất yếu, nên gần 10 năm qua, ngành Dệt May và Da Giầy Việt Nam nói chung và nhiều doanh nghiệp sản xuất trong ngành nói riêng cũng đã sớm nhận thấy xu hướng “xanh hoá” trong yêu cầu của các thị trường nhập khẩu lớn, để từ đó từng bước tiếp cận và hướng phát triển sản xuất theo mô hình kinh tế tuần hoàn, như: Đầu tư cho nghiên cứu phát triển dòng sản phẩm thân thiện với môi trường từ vật liệu tái chế; chương trình nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, sử dụng nhiên liệu sinh khối, điện áp mái; quản lý hoá chất; xử lý nước thải, chất thải,… Tuy nhiên đến nay, ngành Dệt May, Da Giầy Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong hành trình tiến tới kinh tế tuần hoàn trong sản xuất và chuyển đổi sang mô hình kinh doanh bền vững.

Thông tin chi tiết bài viết tại đây

 

[1] Hiệu lực từ 01/8/2020

[2] Hiệu lực từ 01/01/2021