THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁP TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP NỀN TẢNG CỦA VIỆT NAM

20:05 - 26/11/2023

ThS. Hoàng Thị Hương Lan

Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương

 Công nghiệp nền tảng (CNNT) là những ngành công nghiệp tạo dựng cơ sở vật chất cho kinh tế - xã hội, đóng vai trò cung cấp đầu vào, công cụ máy móc, tư liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp khác. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã hình thành được một số ngành công nghiệp sản xuất nền tảng đáp ứng thị trường nội địa. Đến nay, một số sản phẩm ngành công nghiệp nền tảng của nước ta như luyện kim, cơ khí chế tạo, thép… đã khẳng định vị thế tại thị trường nội địa và còn đủ năng lực xuất khẩu. Tuy nhiên, năng lực nội tại của ngành công nghiệp nền tảng còn hạn chế và phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI, liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn chậm nên chưa thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành. Chưa có sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu. Bài viết này phân tích thực trạng và giải pháp phát triển ngành công nghiệp nền tảng Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Công nghiệp nền tảng, thực trạng, giải pháp.

1. Thực trạng ngành công nghiệp nền tảng của Việt Nam

Công nghiệp nền tảng (CNNT) là những ngành công nghiệp tạo dựng cơ sở vật chất cho kinh tế - xã hội, đóng vai trò cung cấp đầu vào, công cụ máy móc, tư liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp khác. Công nghiệp nền tảng được ví như “máy cái” của toàn ngành công nghiệp, chỉ khi máy cái hoạt động thông suốt, cung cấp cho nền kinh tế kịp thời đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, tiên tiến và các sản phẩm trung gian, nguyên phụ liệu chất lượng, đảm bảo tính cạnh tranh cao thì nền kinh tế mới có nền tảng vững chắc và năng lực tự chủ cao để phát triển, lớn mạnh và trở thành nền kinh tế công nghiệp.

CNNT với nghĩa là những ngành công nghiệp mà dựa trên đó những ngành công nghiệp khác tồn tại và phát triển, hay là những ngành công nghiệp tạo dựng cơ sở vật chất cho kinh tế - xã hội, đóng vai trò cung cấp đầu vào, công cụ máy móc, tư liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp khác và được ví như máy cái của các ngành công nghiệp có thể bao gồm các ngành công nghiệp nặng theo cách phân loại công nghiệp nặng/nhẹ của Việt Nam. Có thể kể ra các ngành CNNT như công nghiệp năng lượng, cơ khí chế tạo, luyện kim, hóa chất, phân bón, vật liệu, công nghiệp hỗ trợ… và công nghệ thông tin và viễn thông, công nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, tạo ra nền tảng công nghệ số cho các ngành công nghiệp khác.

Công nghiệp nền tảng là một trong những hoạt động kinh tế trọng tâm của nền kinh tế thế giới trong thời đại hiện nay, là nền tảng cho sự phát triển vượt bậc về công nghệ  của nhân loại. Ngày nay hoạt động CNNT được thực hiện thông qua  các quy trình với mức độ cơ giới hóa, tự động hóa cao và lao động chuyên môn hóa, robot công nghiệp. CNNT cũng thường tiêu thụ năng lượng rất lớn và gây ra các tác động môi trường lớn, vì vậy, việc phát triển CNNT ngày nay với tư cách là nền tảng cho phát triển các ngành công nghiệp khác đặt ra yêu cầu đối với bản thân CNNT phải sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, các bon thấp, đồng thời phải thực hiện xanh hóa, số hóa và thông minh hóa các ngành công nghiệp nền tảng.

Tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có chỉ ra 06 nhóm hàng công nghiệp nền tảng như sau: 1- Luyện kim (ưu tiên phát triển thép hợp kim, thép đặc chủng phục vụ công nghiệp chế tạo máy thế hệ mới, nhất là cho quốc phòng, an ninh). 2- Cơ khí chế tạo (ưu tiên phát triển cơ khí chế tạo cho sản xuất máy nông nghiệp, ô tô, tàu biển, thiết bị công trình, thiết bị năng lượng, thiết bị điện, thiết bị y tế). 3- Hoá chất (ưu tiên phát triển các loại hoá chất cơ bản, hoá dầu, hoá dược, phân bón). 4- Công nghiệp năng lượng (ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, năng lượng mới). 5- Vật liệu (ưu tiên phát triển vật liệu mới). 6- Công nghệ số (ưu tiên phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, Internet vạn vật, thiết bị điện tử - viễn thông, thiết kế và sản xuất chíp bán dẫn).

Trong giai đoạn 2011 - 2020, với việc đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp của khu vực và của thế giới, thuộc nhóm ASEAN-4 và nhóm 30 quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp trung bình cao với vị trí thứ 36 trên thế giới vào năm 2019 (năm 2009 đứng vị trí thứ 58). Theo báo cáo của Bộ Công Thương, giai đoạn 2011-2020, quy mô sản xuất công nghiệp của Việt Nam ngày càng mở rộng với chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng cao (bình quân 7,7%/năm), góp phần gia tăng tỷ trọng của ngành Công nghiệp trong nền kinh tế (từ 26,6% năm 2011 lên 27,5% vào năm 2020), cao hơn tỷ lệ trung bình của thế giới và nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp. Bên cạnh đó, chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ngày càng tích cực theo hướng giảm tỷ trọng các ngành thâm dụng tài nguyên (tỷ trọng ngành khai khoáng giảm gần 2 lần trong 10 năm qua, từ 9,9% xuống còn 5,6%) và tăng tỷ trọng của các ngành chế biến chế tạo (tỷ trọng của ngành chế biến chế tạo (từ 13,4% lên 16,7%). Đồng thời, chuyển dịch nội ngành từ các ngành thâm dụng lao động (dệt may, da giày) sang các ngành thâm dụng vốn (thép, ô tô, hóa chất) và hiện nay là sang các ngành thâm dụng công nghệ (điện tử, công nghệ thông tin).

- Công nghiệp chế biến, chế tạo trở thành động lực tăng trưởng chủ yếu của ngành công nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao (bình quân 10,4%/năm), đóng góp vào xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh qua các năm và đã vượt qua các nước trong khu vực (từ 64% năm 2010 lên 85,1% kim ngạch xuất khẩu của cả nền kinh tế vào năm 2020). Thống kê cho thấy, trong số 11 nhóm ngành Công nghiệp ưu tiên phát triển giai đoạn 2011 - 2020 thì đến nay 6/11 ngành hiện là các ngành công nghiệp đứng đầu cả nước, có đóng góp lớn cả về sản xuất, xuất khẩu, đầu tư và việc làm gồm: Dệt may; Da giầy; Thực phẩm chế biến; Thép; Hóa chất; Nhựa. Đặc biệt, một số ngành công nghiệp xuất khẩu đã cơ bản hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu, có năng lực cạnh tranh cao và chiếm thị phần ngày càng lớn trên thị trường quốc tế. Công nghiệp hỗ trợ, sản xuất linh kiện, cụm linh kiện đã dần được hình thành, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa và giá trị gia tăng trong các ngành công nghiệp, thúc đẩy một số mặt hàng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị, phân phối toàn cầu. Đáng chú ý, đến 2020, công nghiệp vẫn là ngành thu hút đầu tư FDI lớn nhất với tốc độ tăng trưởng cao (tăng gần 2 lần cả về quy mô và tỷ trọng trong 10 năm qua), đặc biệt là trong công nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm hơn 60% vốn đầu tư vào các ngành và khoảng 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) với một số dự án đầu tư lớn của các tập đoàn công nghệ toàn cầu đã tạo động lực tăng trưởng mới cho ngành trong bối cảnh một số ngành công nghiệp lớn đã chạm trần tăng trưởng (dệt may, da giày, khai khoáng…) và góp phần hình thành nên các trung tâm công nghiệp mới của đất nước.

Quy mô sản xuất công nghiệp liên tục được mở rộng. Hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển, góp phần thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước phát triển sản xuất công nghiệp, nhất là các ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế, có giá trị gia tăng cao.  

Quá trình tái cơ cấu ngành công nghiệp ngày càng đi vào chiều sâu hơn với xu hướng chuyển dịch khá rõ và rất tích cực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp. Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo phát triển tích cực phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành, các ngành công nghiệp chủ lực tăng trưởng ở mức cao, là yếu tố chính đóng góp vào phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, nâng thứ hạng về năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.

Công nghiệp hỗ trợ được quan tâm, thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng cao sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản… Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa; cơ cấu sản phẩm có sự dịch chuyển tích cực khi tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao và vừa của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, tạo cơ sở hình thành một số tập đoàn công nghiệp tư nhân có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, điển hình là công nghiệp ô tô Việt Nam, lần đầu tiên khẳng định sự tự chủ trong đầu tư, sản xuất, làm chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Trong năm 2022, theo báo cáo của Bộ Công Thương về tình hình sản xuất và hoạt động công nghiệp và thương mại, sản xuất công nghiệp được phục hồi tích cực. Chỉ số SXCN tăng hơn 9%, cao hơn cùng kỳ năm trước (tăng 4,8%), đạt mục tiêu tăng trưởng của ngành (kế hoạch tăng từ 8,5-9%). Giá trị gia tăng ngành công nghiệp tăng khoảng 9%, cao hơn so với cùng kỳ năm trước (tăng 4,82%) và cao hơn kịch bản tăng trưởng tại Nghị quyết 01 (kịch bản GDP trong công nghiệp tăng 6,4-7,3%). Cơ cấu nội ngành công nghiệp tiếp tục chuyển biến tích cực theo đúng định hướng tái cơ cấu ngành, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp chế biến chế tạo, giảm dần ngành công nghiệp khai khoáng và từ các ngành thâm dụng lao động sang các ngành công nghiệp công nghệ cao (tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục tăng từ 85,5% năm 2021 lên hơn 86% năm 2022). Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2022 tiếp tục duy trì động lực của toàn ngành, tăng trưởng cao nhất trong các nhóm ngành, đóng vai trò chủ chốt dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến chế tạo năm 2022 tăng khoảng 9,5%; đóng góp tới hơn 86% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số ngành CNNT như ngành điện đã đảm bảo tốt cân đối điện phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và sinh hoạt của người dân; tập trung tháo gỡ khó khăn để đưa 06 dự án có nguồn điện lớn đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp điện đi vào vận hành. Ngành dầu khí về đích trước kế hoạch, đưa 05 mỏ và công trình mới vào khai thác, nhiều hơn 01 công trình so với kế hoạch cả năm, nộp ngân sách hoàn thành kế hoạch cả năm trước 6 tháng. Ngành than cũng đã nỗ lực vượt qua khó khăn cơ bản hoàn thành mục tiêu kế hoạch năm 2022…

 Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, phát triển sản xuất công nghiệp thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: năng lực sản xuất công nghiệp chậm được cải thiện, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp có tính nền tảng, then chốt dẫn đến Việt Nam vẫn tiếp tục nhập khẩu lớn máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên vật liệu cho sản xuất các ngành công nghiệp trong nước. Mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế; liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn chậm nên chưa thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành. Chưa có sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu.

Hệ thống thể chế, chính sách phát triển công nghiệp nền tảng còn chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả để thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Việc ban hành chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển công nghiệp nhiều khi còn chậm, với chất lượng chính sách còn chưa cao. Chưa có các công cụ chính sách đủ mạnh để thúc đẩy phát triển công nghiệp, thể hiện công nghiệp hoá là cốt lõi của quá trình phát triển.

Chính sách kinh tế vĩ mô chưa điều tiết phù hợp các nguồn lực quốc gia cho phát triển công nghiệp, chưa khuyến khích sự quan tâm của xã hội đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Việc này dẫn đến sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn về tiếp cận vốn do bản chất của khu vực sản xuất đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn và dài hạn, thời gian thu hồi vốn chậm, lợi nhuận biên kém hấp dẫn so với đầu tư vào lĩnh vực khác như bất động sản, tài chính.

Nội lực của nền công nghiệp trong nước còn yếu, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp trong nước chưa cao, giá trị gia tăng tạo ra trong nước còn thấp, nền công nghiệp chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài.

Nguồn nhân lực công nghiệp còn yếu kém, tỉ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, thiếu tính liên kết giữa khu vực sản xuất với các cơ sở đào tạo, đội ngũ lãnh đạo các doanh nghiệp công nghiệp còn thiếu kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, thiếu nền tảng lý thuyết khoa học về quản trị sản xuất, không có cơ hội tiếp cận với các phương pháp quản lý sản xuất hiệu quả.

Bên cạnh đó, trình độ công nghệ của doanh nghiệp công nghiệp trong nước còn hạn chế, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng ngoài cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, với sự tiếp cận ở mức độ thấp đối với tất cả các trụ cột của một nền sản xuất thông minh.

  1. Một số giải pháp phát triển công nghiệp nền tảng Việt Nam trong thời gian tới

Một là, tạo môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho việc phát triển các ngành công nghiệp nền tảng. Hiện nay, quy mô nền kinh tế được mở rộng. Tuy nhiên trong nhiều giai đoạn, môi trường kinh tế vĩ mô còn chưa ổn định, chưa tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất. Việc đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp khó khăn hơn lĩnh vực thương mại, dịch vụ, trong khi đó, tỷ suất lợi nhuận kém hấp dẫn, nhiều rủi ro. Điều đó dẫn đến số lượng các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp còn kém phát triển và ít ỏi như hiện nay. Có ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền mới tạo điều kiện thuận lợi để duy trì trật tự và thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nói chung và phát triển các ngành công nghiệp nói riêng.

Hai là, có cơ chế huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển công nghiệp nền tảng. Nguồn đầu tư của xã hội cho phát triển công nghiệp phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài. Vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp đa số tập trung vào các ngành có chuỗi sản xuất ngắn, thời gian hoàn vốn ngắn như công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm, số dự án đầu tư vào công nghệ cao chưa nhiều. Trong điều kiện nguồn lực hạn hẹp, việc lựa chọn một số ngành công nghiệp để ưu tiên phát triển phải đáp ứng các nguyên tắc: Dựa trên kết quả phân tích khách quan lợi thế của đất nước; là ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có ý nghĩa nền tảng, có tác động lan tỏa cao đến các ngành kinh tế khác; sử dụng các công nghệ sạch, thân thiện môi trường; có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao; một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà Việt Nam vẫn đang có lợi thế. Việc xác định các ngành công nghiệp ưu tiên phải có tính động và linh hoạt cần thiết, định kỳ phải đánh giá hiệu quả hoạt động theo các tiêu chí để có điều chỉnh phù hợp.

Bên cạnh đó, chú trọng nguồn lực phát triển các ngành công nghiệp nền tảng nhằm xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, hiện đại, bảo đảm năng lực tự chủ về tư liệu sản xuất và nâng cao vị thế của một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp toàn cầu. Hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp quốc gia và tạo dựng thương hiệu Việt Nam dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng tạo.

Ba là, phát triển hệ thống doanh nghiệp công nghiệp nền tảng, hình thành được các tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực và quốc tế. Trừ các doanh nghiệp nhà nước, phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam đều là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trình độ sản xuất hạn chế, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. Bên cạnh đó, hiện chúng ta vẫn chưa hình thành được các tập đoàn công nghiệp có quy mô tầm cỡ khu vực và quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp để tạo hiệu ứng lan tỏa cho công nghiệp Việt Nam.

Bốn là, tăng cường mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng nội ngành và giữa các ngành. Hiện, chưa thực sự tạo được mối liên kết phát triển giữa các ngành theo hướng hợp tác chuyên môn hóa phù hợp với cơ chế thị trường, giữa khu vực doanh nghiệp trong nước và khu vực FDI. Các chương trình hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp tư nhân, thúc đẩy liên kết chưa mang lại nhiều kết quả. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách, pháp luật thực thi cơ cấu lại ngành, thúc đẩy phát triển công nghiệp từ Trung ương đến địa phương, tạo liên kết kinh tế giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng để phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế trong phát triển các ngành, hình thành các cụm liên kết ngành có quy mô lớn, hiệu quả cao.

Năm là, coi trọng phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của các ngành công nghiệp. Doanh nghiệp công nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, đặc biệt là lao động tay nghề cao. Phần lớn lao động trong doanh nghiệp là lao động phổ thông, được đào tạo dưới hình thức vừa học, vừa làm. Số lượng công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ trọng nhỏ và chủ yếu làm bằng kinh nghiệm, phần còn lại có tay nghề thấp, khả năng tiếp nhận các kiến thức mới còn hạn chế. Trình độ đội ngũ quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp nhiều mặt còn yếu.

Để tháo gỡ khó khăn này, cần nghiên cứu, thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nhân lực công nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực công nghiệp có khả năng làm chủ và tiếp nhận các công nghệ sản xuất mới. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật. Tập trung phát triển một số cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề về công nghệ, kỹ thuật đạt trình độ quốc tế. Đẩy mạnh xã hội hóa đào tạo kỹ thuật, công nghệ. Khuyến khích khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực công nghiệp chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo với hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động công nghiệp./.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Công Thương (2021), Báo cáo tổng kết năm 2020 và 5 năm 2016-2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021 ngành Công Thương, Hà Nội, ngày 7/1/2021.
  2. Bộ Công Thương (2021), Diễn đàn xúc tiến xuất khẩu năm 2021, Hà Nội, ngày 15/12/2021 tại https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/xuc-tien-xuat-khau-gop-phan-phuc-hoi-va-phat-trien-kinh-te.html
  3. Bộ Công Thương (2022), Báo cáo tổng kết năm 2022 và triển khai nhiệm vụ năm 2023 ngành Công Thương, Hà Nội, ngày 26/12/2022
  4. Bộ Công Thương (2023), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2022, Nhà xuất bản Công Thương, Hà Nội.
  5. Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  6. Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  7. Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương (2020), Công tác xúc tiến thương mại năm 2020, định hướng triển khai năm 2021 và các năm tiếp theo, Hà Nội, 2020
  8. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2021-2030, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI