
Thực trạng cơ chế chính sách phát triển nguồn nhân lực số ngành Công Thương đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế số
12:13 - 15/12/2025
Phạm Quang Hiếu
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
1. Đặt vấn đề
Nguồn nhân lực số được hiểu là lực lượng lao động trong nền kinh tế số, có vai trò chủ đạo trong việc triển khai, vận hành và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển kinh tế số. Để hiện thực hoá những điều trên, điều quan trọng đầu tiên phải kể đến là cần có một đội ngũ nhân lực số được đào tạo bài bản, chuyên sâu, có lộ trình rõ ràng, đảm bảo cả về chất và lượng trong từng giai đoạn. Ngành Công Thương với vai trò trụ cột trong sản xuất, năng lượng, thương mại đang đứng trước yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi toàn diện từ mô hình quản trị truyền thống sang mô hình quản trị số và kinh tế số. Điều đó đòi hỏi các chính sách phát triển nguồn nhân lực số ngành Công Thương cần phải được hoạch định chính xác, giúp hỗ trợ cho các đơn vị trực thuộc trong quá trình chuyển đổi số cũng như đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng số, năng lực số cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong bối cảnh hiện nay.
2. Chủ trương của Đảng và nhà nước về phát triển nhân lực số
Phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển nguồn nhân lực số nói riêng luôn được Đảng ta coi là một nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần quan trọng trong công cuộc giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội. Qua các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề phát triển nguồn nhân lực số được nhận thức ngày một sâu sắc hơn với những chủ trương, định hướng đúng đắn, phù hợp với tình hình và từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Đại hội XIII xác định phát triển nhân lực chất lượng cao trong đó nhấn mạnh phát triển nhân lực có kỹ năng số, nhân lực cho khoa học — công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là một đột phá chiến lược của Đảng, cụ thể:” Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Ngày 27 tháng 9 năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư trong đó thẳng thắn thừa nhận cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu; cần phải thực hiện các đột phá chiến lược, phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao.
Ngày 28 tháng 01 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 146/QĐ-TTg, trong đó đề cập phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực số đóng vai trò then chốt để thực hiện chuyển đổi số hiệu quả, bền vững, giúp thực hiện thành công các mục tiêu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia. Trong quyết định cũng đưa ra các mục tiêu về nâng cao chất lượng, hiệu qủa đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Quyết định 146/QĐ-TTg cũng đồng thời nhấn mạnh vai trò của nâng cao nhận thức và trau dồi kĩ năng số đóng vai trò quan trọng trong công tác phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao.
Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó chủ trương bảo đảm nguồn nhân lực trình độ cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài lĩnh vực kinh tế số.
Bên cạnh đó, vào ngày 24 tháng 5 năm 2025, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035. Quyết định đề cập: “Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển khoả học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, cần các chính sách đột phá, cơ chế đặc thù, nguồn lực đầu tư xứng tầm, giải pháp cấp bách và lâu dài, lộ trình thực hiện phù hợp”. Nội dung của quyết định cũng chỉ rõ vai trò của nhà nước và các phương thức đào tạo, hợp tác quốc tế của phát triển nhân lực số.
Đây là những chủ trương đúng đắn, kịp thời của Chính phủ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực số, chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao. Điều này thể hiện Chính phủ rất quan tâm và đánh giá cao vai trò của công tác phát triển nhân lực số trong bối cảnh hiện nay.
3. Các chính sách phát triển nhân lực số
Nghị quyết số 52-NQ/TW nhấn mạnh cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, thu hút, sử dụng nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao.
Phát triển và phát huy vai trò nguồn nhân lực số là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu, động lực của chuyển đổi số. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong đó, nhấn mạnh vai trò của nguồn nhân lực số và đặt ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong phát triển nguồn nhân lực số: “Xây dựng chương trình, nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước” và “Lựa chọn, đào tạo, tập huấn đội ngũ tối thiểu 1.000 chuyên gia về chuyển đổi số cho ngành, lĩnh vực, địa phương. Các chuyên gia này tiếp tục đào tạo lại cho cán bộ liên quan ở cơ quan, tổ chức mình và trở thành lực lượng nòng cốt để dẫn dắt, tổ chức và lan tỏa tiến trình chuyển đổi số quốc gia”. Tất cả các bộ, ngành trung ương và 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cụ thể hóa Quyết định số 749/QĐ-TTg bằng các chương trình, kế hoạch, đề án riêng về chuyển đổi số trong giai đoạn 2021-2025.
Ngày 28 tháng 01 năm 2022 Chính phủ ban hành Quyết định 146/QĐ-TTg trong đó có rất nhiều nội dung phục vụ công tác phát triển nguồn nhân lực số như chuẩn hoá các chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế, xây dựng thư viện điện tử quốc gia, nền tảng học liệu mở, tăng cường giảng dạy kỹ năng số, tư duy công nghệ cho các cơ sở giáo dục cả nước. Bộ, ngành địa phương đã xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, triển khai đào tạo bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên trách và trực tiếp triển khai chuyển đổi số trong các cơ quan nhà nước cũng như Áp dụng hình thức khen thưởng đột xuất và kịp thời cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có ý tưởng, sáng kiển, cách làm đột phá, sáng tạo trong chuyển đổi số, giúp mang lại hiệu quả cao trong hoạt động của cơ quan, tổ chức. Quyết định cũng đề cập đến xây dựng và ban hành cơ chế chính sách thu hút giảng viên giỏi tham gia giảng dạy và gây dựng quy học bổng cho học viên theo học các ngành chuyên sâu về chuyển đổi số, công nghệ số.
Các chính sách về hỗ trợ đối với người làm công tác chuyên trách về chuyển đổi số, an toàn thông tin mạng, an ninh mạng được đề cập trong nghị định số 179/2025/NĐ-CP.
Trong những năm qua, Bộ Công Thương đã ban hành nhiều văn bản, chính sách nhằm thúc đẩy chuyển đổi số ngành Công Thương, triển khai Chiến lược Quốc gia về phát triển kinh tế số và xã hội số. Trong đó, tập trung vào các nội dung: Tăng cường xây dựng Chính phủ điện tử Bộ Công Thương; thúc đẩy phát triển kinh tế số ngành Công Thương theo ba lĩnh vực ưu tiên là thương mại, công nghiệp - năng lượng và dịch vụ logistics. Hiện nay, Bộ Công Thương là một trong những đơn vị đi đầu trong công tác chuyển đổi số. Đặc biệt, bộ đã triển khai quyết liệt các văn bản quan trọng như Quyết định số 1753/QĐ-BCT 2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về đề án phát triển kinh tế số ngành Công Thương đến năm 2030, cùng với Quyết định số 1080/QĐ-BCT về kế hoạch chuyển đổi số của ngành Công Thương. Bộ Công Thương cũng đã ban hành các văn bản khác nhằm thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực số của Bộ, ngành Công Thương như:
(1) Nghị quyết số 111-NQ/BCSĐ của Ban cán sự đảng Bộ Công Thương về một số nhiệm vụ cần triển khai để đẩy mạnh chuyển đổi số tại Bộ Công Thương;
(2) Chỉ thị số 02-CT/BCSĐ ngày 14/7/2023 của Ban cán sự đảng Bộ Công Thương về việc tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử, phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 và Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 30/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ phát triển TMĐT, chống thất thu thuế, bảo đảm an ninh tiền tệ tại Bộ Công Thương;
(3) Quyết định số 1876/QĐ-BCT ngày 21/7/2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc ban hành Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ Công Thương năm 2023; Trong đó chỉ đạo xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hàng năm cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý, trong đó bao gồm các nội dung về chuyển đổi số, phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Đồng thời Bộ đã giao Vụ Tổ chức cán bộ tổ chức các chương trình tập huấn bồi dưỡng phổ cập kỹ năng số cơ bản cho cán bộ, công chức, viên chức của Bộ;
(4) Quyết định số 1905/QĐ-BCT ngày 25/7/2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc thành lập Đội Ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng của Bộ Công Thương. Quyết định góp phần đảm bảo an toàn, an ninh mạng, phòng ngừa rủi ro trên không gian số.
(5) Quyết định số 3411/QĐ-BCT ngày 29/12/2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương về việc ban hành danh mục cơ sở dữ liệu và cơ sở dữ liệu mở của Bộ Công Thương.
4. Kết quả đạt được và hạn chế của các chủ trương, chính sách phát triển nguồn nhân lực số ngành Công Thương giai đoạn 2021-2025
4.1. Những kết quả đạt được
a) Hoàn thiện khung chính sách và thể chế — tạo nền tảng pháp lý rõ ràng
Nhà nước, Chính phủ và Bộ Công Thương đã ban hành một loạt văn bản chiến lược, chương trình, kế hoạch làm cơ sở triển khai (Chương trình Chuyển đổi số quốc gia; Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số; Đề án phát triển kinh tế số ngành Công Thương). Việc có các quyết định này giúp thống nhất mục tiêu, phân công trách nhiệm và tạo hành lang cho các hoạt động đào tạo, tuyển dụng, thu hút nhân tài.
b) Cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng chuyên trách được đào tạo, phổ cập kỹ năng số
Quyết định 146/QĐ-TTg (2022) đã triển khai các giải pháp cụ thể:, chương trình phổ cập kỹ năng số, đề án đào tạo đội ngũ chuyên gia chuyển đổi số — dẫn tới việc nhiều khoá tập huấn, chương trình bồi dưỡng được triển khai trong các cơ quan nhà nước và ngành.
Bộ đã phê duyệt nhiều Đề án/Quyết định chuyên ngành, đồng thời ban hành các văn bản chỉ đạo, kế hoạch đào tạo, chương trình tập huấn nội bộ; đây là bước quan trọng để nâng cao năng lực số cho nhân sự các đơn vị trực thuộc và doanh nghiệp trong ngành.
c) Xây dựng hạ tầng cơ sở dữ liệu, mở dữ liệu và năng lực quản trị dữ liệu ngành
Bộ Công Thương đã ban hành danh mục cơ sở dữ liệu và cơ sở dữ liệu mở (Quyết định 3411/QĐ-BCT), tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức chia sẻ, sử dụng dữ liệu làm nguồn học liệu, bài tập thực hành và nghiên cứu cho đào tạo nhân lực số. Việc này cũng góp phần chuẩn hóa dữ liệu phục vụ đào tạo, nghiên cứu và phát triển ứng dụng số.
d) Tăng cường năng lực an toàn, an ninh mạng chuyên ngành
Thành lập Đội Ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng của Bộ Công Thương (Quyết định 1905/QĐ-BCT) — cho thấy chú trọng cả khía cạnh “kỹ năng vận hành an toàn” cho hệ thống số của Bộ và nâng cao năng lực xử lý sự cố, bảo đảm môi trường số an toàn cho cán bộ, công chức, viên chức tham gia hoạt động chuyển đổi số.
e) Hợp tác liên ngành, doanh nghiệp và quốc tế được thúc đẩy hơn
Các chương trình, đề án đều nhấn mạnh vai trò hợp tác giữa nhà nước và các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và mở cửa cho hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao. Điều này giúp tăng khả năng thực hành và kết nối đầu ra cho người học
4.2. Hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận nhưng trong quá trình triển khai phát triển nguồn nhân lực số tại Bộ Công Thương còn có thể được đẩy mạnh hơn nữa nếu giải quyết được một số tồn tại, hạn chế như sau:
- Thiếu sự quan tâm và quyết tâm đẩy mạnh hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin tại một số đơn vị thuộc Bộ. Bên cạnh đó, cán bộ, công chức một số đơn vị vẫn có thói quen làm việc trên giấy, ngại ứng dụng công nghệ thông tin.
- Việc chia sẻ dữ liệu nhằm phục vụ công tác quản lý, điều hành cũng như để phục vụ phát triển nguồn nhân lực số còn hạn chế.
- Do phần lớn được xây dựng đã lâu, các cơ sở dữ liệu tại Bộ còn hạn chế, dữ liệu chưa đầy đủ, thiếu sự kết nối, chia sẻ, cập nhật dữ liệu, chưa tối ưu với người sử dụng.
- Một bộ phận cơ sở hạ tầng thông tin bao gồm máy chủ, thiết bị mạng, thiết bị lưu trữ, đường truyền Internet... đã xuống cấp, không có tính dự phòng, phân tán và chưa đáp ứng được các yêu cầu đặt ra để phát triển khả năng của nhân lực trong bối cảnh kinh tế số.
- Ứng dụng công nghệ thông tin nội bộ đã được triển khai nhưng còn chưa tối ưu với người sử dụng. Các ứng dụng nội bộ đã được triển khai trong nhiều giai đoạn khác nhau, đến nay có những ứng dụng không còn đáp ứng được yêu cầu nghiên cứu, học tập của cán bộ, công chức, viên chức Bộ
- Hệ thống phần mềm, phần cứng phục vụ công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin tại Bộ chưa được trang bị bản quyền dài hạn, dẫn đến chưa tận dụng được khả năng tối đa. Công tác đảm bảo an toàn, an ninh thông tin còn chưa được chú trọng đúng mức
- Công tác tuyên truyền, phổ biến về chuyển đổi số, đẩy mạnh phát triển nhân lực số của Bộ Công Thương còn chưa thật sự hiệu quả và sát với thực tế.
5. Một số giải pháp khắc phục
Cơ chế chính sách là nền tảng quyết định chất lượng phát triển nguồn nhân lực số trong khu vực công. Thực tiễn ngành Công Thương cho thấy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh công tác cán bộ, công chức, viên chức vẫn còn phân tán, chồng chéo, thiếu cơ chế điều phối tổng thể. Việc quản lý nhân lực chủ yếu dựa trên biên chế và ngạch bậc, chưa gắn với năng lực, hiệu quả công vụ và kết quả đầu ra. Vì vậy, trước hết cần hoàn thiện hệ thống thể chế, bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và có khả năng dự báo cao.
Cùng với đó, Bộ cần nghiên cứu áp dụng khung năng lực số tổng thể cho từng nhóm chức danh trong ngành, bao gồm bốn trụ cột: năng lực chuyên môn, năng lực quản trị, năng lực số và năng lực đạo đức công vụ. Khung năng lực này sẽ là căn cứ cho toàn bộ quy trình tuyển dụng, đào tạo, đánh giá, khen thưởng và bổ nhiệm, qua đó thay thế mô hình hành chính cũ vốn coi trọng thâm niên hơn là năng lực thực tiễn. Mỗi vị trí việc làm cần được mô tả chi tiết về nhiệm vụ, yêu cầu kết quả và tiêu chí đầu ra, bảo đảm công bằng và minh bạch trong đánh giá nhân sự.
- Thể chế hóa mô hình hợp tác giữa Nhà nước – cơ sở giáo dục - doanh nghiệp. Thể chế hoá mô hình hợp tácnhằm tạo sự liên thông giữa đào tạo, việc làm và sử dụng. Doanh nghiệp cần được khuyến khích tham gia thiết kế chương trình đào tạo, hướng dẫn thực tập, đào tạo và tiếp nhận nhân sự số.
- Mở rộng quyền phân cấp, phân quyền cho các đơn vị sự nghiệp công lập, cho phép chủ động tuyển dụng, bố trí và trả lương theo hiệu quả, đồng thời tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát, đảm bảo trách nhiệm giải trình. Việc hoàn thiện thể chế và khung pháp lý theo hướng hiện đại, minh bạch, gắn với năng lực và hiệu quả công vụ sẽ là bước đột phá, giúp chuyển đổi mô hình quản lý nhân lực từ hành chính hóa sang quản trị theo năng lực, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực số
- Có cách tiếp cận mở, vận dụng sáng tạo, cho phép thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra. Chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo.
- Thống nhất, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phát triển các viện nghiên cứu, trường đại học trở thành các chủ thể nghiên cứu mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo. Đầu tư, nâng cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, cùng các cơ sở nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trọng điểm quốc gia. Sáp nhập, giải thể các tổ chức khoa học và công nghệ hoạt động không hiệu quả.
- Thu hút, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Ngân sách chi cho nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ ưu tiên thực hiện theo cơ chế quỹ, thông qua các quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Cơ cấu lại nguồn ngân sách chi sự nghiệp khoa học và công nghệ bảo đảm tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải.
- Có cơ chế khuyến khích mua sắm công đối với các sản phẩm, hàng hoá là kết quả nghiên cứu khoa học do doanh nghiệp trong nước tạo ra. Có cơ chế đặc biệt trong nghiên cứu, tiếp cận, mua các bí mật công nghệ, học hỏi, sao chép các công nghệ tiên tiến của nước ngoài.
6. Kết luận
Phát triển nguồn nhân lực số là điều kiện tiên quyết để ngành Công Thương thực hiện thành công chuyển đổi số, phát triển kinh tế số và nâng cao năng lực quản lý nhà nước, năng suất, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh mới. Qua phân tích thực trạng cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực số ngành Công Thương giai đoạn 2021–2025, có thể khẳng định rằng Đảng, Nhà nước và Bộ Công Thương đã ban hành tương đối đầy đủ hệ thống chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch, tạo nền tảng pháp lý và định hướng chiến lược quan trọng cho công tác đào tạo, bồi dưỡng, thu hút và sử dụng nhân lực số.
Tuy nhiên, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực số của ngành Công Thương vẫn còn những hạn chế nhất định như: sự thiếu đồng bộ trong triển khai cơ chế chính sách giữa các đơn vị; cơ sở hạ tầng, dữ liệu và các ứng dụng nội bộ chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn; cơ chế quản lý, sử dụng và đãi ngộ nhân lực số chưa thực sự gắn với năng lực và hiệu quả công vụ; công tác tuyên truyền, tạo động lực và khuyến khích đổi mới sáng tạo còn chưa mạnh. Những tồn tại này nếu không được khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng đến chất lượng và tính bền vững của quá trình phát triển nguồn nhân lực số trong thời gian tới.
Trong bối cảnh kinh tế số tiếp tục phát triển nhanh và sâu rộng, yêu cầu đặt ra đối với ngành Công Thương là phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách một cách phù hợp, lấy năng lực số và hiệu quả thực thi làm thước đo trung tâm; đồng thời tăng cường đầu tư cho hạ tầng số, dữ liệu, an toàn thông tin và đẩy mạnh hợp tác công – tư, hợp tác quốc tế trong đào tạo và sử dụng nhân lực số. Việc triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nêu trên sẽ góp phần hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực số ngành Công Thương, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số và chuyển đổi số quốc gia trong giai đoạn tới.
Tài liệu tham khảo:
- Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2023, tầm nhìn đến năm 2030”;
- Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030;
- Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28 tháng 01 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”;
- Quyết định số 411/QĐ-TTG ngày 31 tháng 3 năm 2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;
- Quyết định số 1753/QĐ-BCT ngày 06 tháng 7 năm 2023 của Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt Đề án phát triển Kinh tế số ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030;
- Quyết định số 165/QĐ-TTg ngày 28 tháng 02 năm 2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030;
- Quyết định số 1437/QĐ-TTg ngày 20/11/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển kinh tế số giai đoạn 2024-2025;
- Quyết định số 757/QĐ-BKHCN ngày 29 tháng 04 năm 2025 của Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành khung kiến thức, kỹ năng số cơ bản và hướng dẫn đánh giá, xác nhận hoàn thành mức độ phổ cập kỹ năng số
- Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử quốc gia giai đoạn 2021 – 2025;
- Quyết định số 1080/QĐ-BCT ngày 08/5/2024 của Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ Công Thương năm 2024
