
Quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển năng lượng vùng Bắc Trung bộ, duyên hải Trung bộ và Tây nguyên
14:56 - 12/11/2025
ThS. Nguyễn Ngọc Quang, CN. Đỗ Thị Bích Thủy, CN. Đinh Thị Bích Liên
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
Phát triển năng lượng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mang tính chiến lược, làm nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh đối với cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển vừa qua, vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn khách quan và chủ quan trong phát triển năng lượng. Nhu cầu tiêu dùng năng lượng phục vụ công nghiệp và dịch vụ phát triển chưa cao; thế mạnh kinh tế biển và tiềm năng phát triển năng lượng gió chưa được khai thác tốt; thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển năng lượng gặp nhiều khó khăn... dẫn đến tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Vùng. Để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh và tiềm năng, thế mạnh của vùng, tiếp tục thực hiện các mục tiêu Nghị quyết số 168-NQ/CP ngày 29 tháng 12 năm 2022 của Chính phủ về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 03 tháng 11 năm 2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bài viết chú trọng đề xuất các quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển năng lượng vùng Bắc Trung bộ, duyên hải Trung bộ và Tây nguyên trong thời gian tới.
Từ khóa: Phát triển năng lượng, năng lượng tái tạo
1. Thực trạng phát triển các nguồn năng lượng vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên
Nguồn điện năng Vùng BTB, DHTB trong giai đoạn từ 2015 trở lại đây được duy trì mức tăng trưởng cao. Tính đến thời điểm cuối năm 2024, Vùng BTB, DHTB & TN hiện có 507 nhà máy điện các loại bao gồm: thuỷ điện, nhiệt điện tham, điện gió gần bờ, điện sinh khối và điện rác với tổng công suất đạt 32,052.52 MW, chiếm gần ½ tổng công suất các nguồn điện của hệ thống điện quốc gia (khoảng 69.000 MW) và tăng gần 2 lần so với năm 2015. Cơ cấu nguồn điện cũng có sự thay đổi đáng kể, theo đó, tỉ trọng nguồn thủy điện và nhiệt điện than có xu hướng giảm dần, trong khi nguồn NLTT có xu hướng tăng. Giai đoạn 2020-2024 tổng công suất đặt nguồn điện toàn quốc tăng bình quân 9.98%/năm, cao hơn mức tăng trưởng phụ tải cực đại cùng giai đoạn (9.0%/năm). Nhìn chung, nguồn điện năng Vùng BTB, DHTB tương đối lớn, ổn định, khá an toàn, tin cậy, đảm bảo cung cấp điện cho hệ thống điện toàn quốc. Hầu hết các nhà máy đều đi vào hoạt động với thời gian chưa lâu, do đó tình trạng thiết bị vẫn còn khá tốt, các nhà máy làm việc ổn định.
1.1 Nhiệt điện
Nhiệt điện than là nguồn điện truyền thống, với ưu điểm là có công suất rất linh hoạt từ nhỏ nhất là khoảng 5 MW đến khoảng 1500 MW hiện nay và có khả năng chuvển đổi sang nhiệt điện chạy dầu hoặc khí hoặc chu trình hỗn hợp. Tính đến thời điểm cuối năm 2024, vùng BTB, DHTB & TN hiện có 11 nhà máy nhiệt điện chạy bằng than, với tổng công suất lắp đặt là 9.408 MW, Các nhà máy nhiệt điện than chủ yếu đặt tại các tỉnh vùng BTB-DHTB trước đây bao gồm : Thanh Hóa (02 NM); Hà Tĩnh (02 NM); Quảng Nam (01 NM); Khánh Hòa (01 NM); Bình Thuận (04 NM). Vùng Tây Nguyên trước đây chỉ có 01 nhà máy nhiệt điện Bauxit nhôm với công suất 30 MW. Trong số các nhà máy nhiệt điện than tham gia thị trường điện năm 2024, có 02 nhà máy gián tiếp tham gia thị trường điện là Vĩnh Tân 1 với công suất 1200 MW và nhà máy nhiệt điện than Formosa 1 với công suất 676 MW.
Về công nghệ, hiện nay, các nhà máy nhiệt điện của Vùng BTB, DHTB & TN có công nghệ cao, thông số siêu tới hạn như Vĩnh Tân I, Vĩnh Tân IV, Duyên Hải III. Hiện tại, nhiệt điện than siêu tới hạn có suất tiêu hao than tiêu chuẩn khoảng 335g/kWh (hiệu suất 41%), đa số các khâu tự động, khử khí SOx trong khói thải với tỷ lệ khói được xử lý chiếm 78% tổng lượng khói thải, đạt hiệu suất 90% và nồng độ SO2 ra khỏi ống khói < 500mg/m3. Phần lớn các nhà máy nhiệt điện than hiện tại đã lắp đặt thiết bị lọc khí thải để duy trì phát thải trong mức cho phép theo các tiêu chuẩn của Việt Nam (như lọc bụi tĩnh điện, giảm SO2, giảm NOx, hệ thống giám sát khí thải liên tục). Tuy nhiên vẫn còn 1 số nhà máy cũ như Phả Lại I, Ninh Bình chưa áp dụng khử SO2. Về điện tự dùng của nhà máy nhiệt điện than, các nhà máy mới vào vận hành như Vũng Áng I, Vĩnh Tân 1, Vĩnh Tân 2 có tỷ lệ tự dùng thấp khoảng gần 8%, các nhà máy cũ phần lớn có tỷ lệ tự dùng cao từ 10 13%.
Áp lực từ công luận và các cam kết phát triển bền vững đòi hỏi các nhà máy nhiệt điện phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về môi trường. Tất cả các nhà máy phải được thực hiện đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt trước khi xây dựng.
Việc bắt buộc áp dụng các công nghệ SCR, ESP, và FGD làm tăng đáng kể chi phí vốn (CAPEX) và chi phí vận hành (OPEX) của các dự án nhiệt điện than mới. Điều này là cần thiết để đạt được tiêu chuẩn an toàn môi trường quốc gia, nhưng nó cũng làm ảnh hưởng đến tính cạnh tranh về giá so với các nguồn năng lượng tái tạo hoặc thủy điện. Tuy nhiên, việc chấp nhận chi phí môi trường cao là yêu cầu bắt buộc để đảm bảo tính bền vững theo QHĐ VIII, tránh sự phản đối của công chúng và khó khăn trong việc phê duyệt ĐTM. Công tác quản lý chất thải và giám sát phát thải được thực hiện chặt chẽ. Các nhà máy phải kiểm soát và xử lý nghiêm ngặt tro bay, khí thải, nước thải, và kiểm soát bụi than. Đặc biệt, các thông số môi trường phát thải từ nhà máy được giám sát online và phối hợp báo cáo định kỳ hàng quý đến các Sở Tài nguyên và Môi trường, cho phép chính quyền và người dân giám sát trực tiếp quá trình sản xuất và bảo vệ môi trường.
1.2. Thủy điện
Thủy điện là một trong những nguồn điện truyền thống của vùng BTB, DHTB & TN và giữ vai trò cung cấp chính trong hệ thống điện Việt Nam. Hiện nay, do nguồn thủy điện đã được khai thác gần hết, cùng với sự phát triển của điện NLTT, tỷ trọng của thủy điện đang có xu hướng giảm dần trong cơ cấu tổng nguồn điện sản xuất của Vùng. Hiện có 45 công trình thủy điện lớn và vừa; 252 công trình thủy điện nhỏ và 261 nhà máy thủy điện siêu nhỏ, với công suất đạt 12495.04 MW, đóng góp lớn nhất trong tổng công suất các nguồn điện toàn vùng. Các nhà máy thủy điện lớn (công suất trên 100MW) tập trung chủ yếu ở Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Kon Tum, Gia Lai, trong đó các nhà máy thủy điện lớn phân bố theo lưu vực sông Sêrêpôk, Sê San, Đồng Nai, sông Ba, sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Thu Bồn …
Các nhà máy thủy điện có mức độ tự động hóa, thiết bị, công nghệ không đồng đều. Có nhà máy đã tự động hóa cao như Thủy điện Vĩnh Sơn - Sông Hinh (thiết bị của hãng Cogelec Pháp), sử dụng hệ thống kích từ thuộc loại hiện đại nhất thế giới, nhưng cũng có nhà máy còn thiết bị của những năm 1960. Mức độ tự động hóa tại các nhà máy chưa cao nên biên chế cán bộ công nhân còn khá lớn; trung bình 0.6 người/MW trong khi chỉ số ở các nước phát triển là 0.1. Biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng đến nguồn nước sẵn có và do đó ảnh hưởng đến việc sản xuất thủy điện ở nhiều khu vực ở Việt Nam, trong đó có Vùng BTB, DHTB & TN.
