Quan điểm, định hướng tăng cường năng lực tham gia của các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị ngành chế biến chế tạo Việt Nam đến năm 2035

09:57 - 28/10/2025

ThS. Hoàng Thị Vân Anh

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Tóm tắt: Trong tiến trình phát triển công nghiệp, nhất là đối với một quốc gia đang dịch chuyển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như Việt Nam hiện nay, công nghiệp hỗ trợ có vai trò nền tảng đối với các ngành công nghiệp nói riêng cũng như đối với cả nền kinh tế nói chung, đặc biệt là đối với công nghiệp chế biến, chế tạo. Công nghiệp hỗ trợ có vai trò then chốt trong tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động và kỹ năng của người lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh và chất lượng hàng hóa Việt Nam. Vì vậy, việc xác định các quan điểm, định hướng chiến lược nhằm tăng cường năng lực tham gia của các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị ngành công nghiệp chế biến chế tạo là cần thiết, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế - xã hội thời gian tới.

1. Xác định quan điểm

Một là, tăng cường năng lực tham gia của sản phẩm CNHT trong chuỗi giá trị ngành chế biến chế tạo của Việt Nam nhằm đảm bảo phát huy đầy đủ vai trò động lực của công nghiệp CBCT trong việc thúc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu vào năm 2030; Đến năm 2035 tăng cường vững chắc vị trí nước công nghiệp mới và tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Hai là, tăng cường năng lực tham gia của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị ngành CBCT trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu sắc. Phát triển công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy tự do kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Đảm bảo phát triển công nghiệp hỗ trợ CBCT phù hợp với các điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Cần nghiên cứu sâu hơn, tiếp thu có chọn lọc và vận dụng phù hợp những kinh nghiệm, bài học về phát triển công nghiệp hỗ trợ của thế giới, áp dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam để tạo ra những đột phá tăng cường năng lực tham gia của sản phẩm CNHT trong giai đoạn từ nay đến năm 2035.

Ba là, tăng cường năng lực của CNHT ngành CBCT phải hướng đến việc hình thành năng lực sản xuất quốc gia mới có tính tự chủ, tham gia hiệu quả, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng chống chịu hiệu quả trước các tác động lớn, bất thường từ bên ngoài nhằm phát triển bền vững nền kinh tế. Phát huy nội lực là yếu tố quyết định gắn với ngoại lực và sức mạnh thời đại. Không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, phát triển lực lượng doanh nghiệp của người Việt Nam ngày càng vững mạnh và huy động sức mạnh tổng hợp của đất nước, nâng cao hiệu quả và lợi ích do hội nhập quốc tế mang lại.

Bốn là, tăng cường năng lực của sản phẩm CNHT tham gia chuỗi giá trị hàng CBCT là vô cùng quan trọng trong thực hiện cơ cấu lại ngành công nghiệp, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với các ngành kinh tế khác, bao gồm thương mại, nông nghiệp, dịch vụ, tài chính, tiền tệ, khoa học, công nghệ, đào tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong đó, phải bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ chế biến chế tạo với chiến lược tổng thể phát triển công nghiệp, giữa chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược, quy hoạch phát triển chung của đất nước và các ngành kinh tế khác để hình thành các vùng công nghiệp, cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, các mạng sản xuất, chuỗi giá trị công nghiệp, trong đó cụm liên kết ngành công nghiệp là trọng tâm.

Năm là, tăng cường năng lực sản phẩm công nghiệp hỗ trợ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ngành chế biến chế tạo theo hướng kết hợp hài hòa cả chiều rộng và chiều sâu, gia tăng số lượng doanh nghiệp CNHT đi đôi với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Tận dụng triệt để lợi thế của nước đi sau, còn đang trong thời kỳ có cơ cấu dân số vàng để kết hợp hài hòa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó chú trọng phát triển theo chiều sâu là chính, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của ngành và sản phẩm công nghiệp CBCT. Khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tận dụng tối đa lợi thế thương mại và thành tựu của hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, đa dạng các ngành công nghiệp, đồng thời kết hợp phát triển chuyên sâu những sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trọng điểm, mang tầm chiến lược, công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh.

 Sáu là, tăng cường năng lực công nghiệp hỗ trợ tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ngành chế biến, chế tạo trên cơ sở nền tảng của khoa học và công nghệ, đổi mới và sáng tạo cùng với giáo dục và đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá để phát triển nền kinh tế nói chung và công nghiệp hỗ trợ chế biến chế tạo nói riêng. Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, giáo dục và đào tạo cũng là quốc sách hàng đầu, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp.

Trên cơ sở nền tảng của khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo nhằm tận dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hóa, đặc biệt là cuộc CMCN 4.0 để có cách tiếp cận đột phá, đi tắt, đón đầu một cách hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp. Việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên phải khách quan, dựa trên khoa học và công nghệ, các nguyên tắc, hệ thống tiêu chí rõ ràng, phù hợp với từng giai đoạn công nghiệp hóa của đất nước, phát huy tốt nhất lợi thế quốc gia. Trong đó, lựa chọn ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ chế biến chế tạo trọng điểm, công nghệ cao là tất yếu khách quan.

Bảy là, tăng cường năng lực sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở phân định rõ vai trò của nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh. Nhà nước sử dụng các nguồn lực và công cụ, chính sách để định hướng và điều tiết, thúc đẩy phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường. Nhà nước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển công nghiệp, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển công nghiệp. Trong khi đó, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển công nghiệp, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất trong công nghiệp. Thị trường cung cấp tín hiệu thông tin khách quan bảo đảm cho việc phân phối nguồn lực linh hoạt và hiệu quả hơn giữa các ngành công nghiệp và giữa các vùng công nghiệp. Các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp phù hợp với cơ chế thị trường.

Sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự, các hiệp hội ngành hàng, các đoàn thể đại diện nhân dân có vai trò rất lớn trong việc giám sát và phản biện xã hội, phối kết hợp với nhà nước, doanh nghiệp, trong việc đảm bảo phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, góp phần đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa các mục tiêu phát triển kinh tế, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững, cũng như đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về việc phân phối lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Trên cơ sở của các mối quan hệ hài hòa lợi ích đó sẽ đảm bảo phát triển bền vững nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo nói riêng.

2. Định hướng tăng cường năng lực tham gia của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị ngành chế biến chế tạo Việt Nam

Một là, tăng cường năng lực tham gia của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành chế biến chế tạo theo hướng xác định các động lực tăng trưởng mới của ngành Công Thương, tăng cường sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài và khai thác có hiệu quả quá trình hội nhập. Theo đó:

- Trọng tâm ưu tiên là phát triển công nghiệp hỗ trợ chế biến, chế tạo nền tảng để làm chủ khu vực sản xuất, đặc biệt là tư liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp xuất khẩu và nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất; Phát triển sản phẩm CNHT công nghệ cao phục vụ công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

- Phát triển hệ sinh thái xanh đối với chuỗi sản xuất, cung ứng ngành chế biến, chế tạo, từ thượng nguồn sản xuất sản phẩm CNHT tới hạ nguồn sản xuất, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh và phân phối tới tay người tiêu dùng. Ưu tiên phát triển các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số trong sản xuất, thương mại hàng CNHT chế biến, chế tạo,...

- Thúc đẩy phát triển thị trường trong nước cho sản phẩm CNHT để củng cố nội lực là yếu tố quyết định gắn với mở rộng thị trường bên ngoài, trong đó, tăng cường ứng dụng thương mại điện tử, thương mại số hóa trở thành động lực tăng trưởng thị trường quan trọng.

- Tiếp tục thúc đẩy nâng cao mức độ và chất lượng hội nhập quốc tế để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, tranh thủ nguồn vốn, công nghệ, kiến thức và kỹ năng quản lý; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm; thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp trong nước, xác lập vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu; đóng góp tích cực vào quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thu hẹp khoảng cách phát triển so với các nước phát triển hơn trong khu vực và thế giới.

Hai là, tăng cường năng lực sản phẩm CNHT tham gia chuỗi giá trị toàn cầu ngành chế biến chế tạo hướng đến các biện pháp chính sách thúc đẩy tập trung nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng trong sản xuất, xuất khẩu và sức cạnh tranh của các mặt hàng hỗ trợ chế biến, chế tạo, qua đó tạo cơ sở nâng cao năng lực tự chủ, sức chống chịu, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

- Tiếp tục tăng cường năng lực sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu, tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Đến năm 2025, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu cho sản xuất nội địa, đến năm 2030, sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng được 70% nhu cầu cho sản xuất nội địa và đến năm 2035 đáp ứng từ 80% nhu cầu sản xuất nội địa trở lên.

- Chú trọng nội địa hoá chuỗi cung ứng các ngành công nghiệp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tăng cường tính tự chủ, nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Xanh hóa các ngành công nghiệp, đảm bảo sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên và năng lượng trong các ngành công nghiệp.

- Nỗ lực phát triển sản xuất sản phẩm CNHT đóng góp vào việc thúc đẩy tăng nhanh sản xuất công nghiệp CBCT và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp từ các ngành thâm dụng tài nguyên, lao động sang các ngành thâm dụng vốn và công nghệ, các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp cac-bon thấp; từ các công đoạn có giá trị gia tăng thấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực.

Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP khoảng 30% với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 9 - 10%/năm; tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt trên 45%. Đến năm 2035, tỷ trọng công nghiệp chế biến chế tạo tăng lên 35%- 37% trong GDP; tỷ trọng giá trị  sản phẩm công nghệ cao trong CN CBCT chiếm trên 55%.

Đối với các ngành công nghiệp công nghệ cao, ưu tiên phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá nhằm hình thành năng lực sản xuất mới gắn liền với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để đi tắt, đón đầu trong phát triển một số ngành, sản phẩm, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao.

Tập trung phát triển các sản phẩm công nghiệp quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao và các ngành kinh tế sáng tạo, trong đó chú trọng phát triển sản phẩm công nghệ cao, trọng tâm, sáng tạo tại Việt Nam, thiết kế tại Việt Nam, tích hợp thành sản phẩm thương mại tại Việt Nam.

Ba là, đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ nhằm phục vụ các ngành công nghiệp xuất khẩu lớn như: điện tử, ô tô, dệt may, da giày, cơ khí, công nghệ cao… và tăng cường khả năng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp hỗ trợ đáp ứng 70% nhu cầu sản xuất trong nước. Tăng cường làm chủ công nghệ cốt lõi, tạo dựng thương hiệu Việt Nam, sử dụng công nghệ Việt Nam và gắn kết hiệu quả với mạng lưới chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước ngoài...

- Tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ các ngành hàng CBCT có quy mô xuất khẩu lớn, lợi thế cạnh tranh cao (điện tử, dệt may, da giày, cơ khí chế tạo, ô tô...) gắn với đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm CNHT phục vụ cho xuất khẩu. Qua đó, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, tỷ lệ nội địa hoá lớn, đáp ứng tiêu chuẩn cao về chất lượng và phát triển bền vững của các thị trường. 

- Ưu tiên phát triển sản xuất, cung ứng các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có tỷ lệ nội địa hoá lớn, đáp ứng tiêu chuẩn cao về tiêu chuẩn chất lượng và phát triển bền vững của các thị trường xuất khẩu. Nâng cao thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa công nghiệp chế biến chế tạo lên khoảng 90%, trong đó tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa công nghệ trung bình và cao tăng lên khoảng 70%. Đến năm 2035, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa công nghệ trung bình và cao tăng lên 80%.

- Xây dựng và triển khai chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2030, chú trọng đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ trong các Hiệp định thương mại tự do, tập trung vào các lĩnh vực: Ðiện tử thông minh, ô-tô, dệt may-da giày, cơ khí và tự động hóa, nông nghiệp và công nghệ sinh học, công nghệ cao.

Bốn là, tiếp tục xây dựng và tăng cường năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành chế biến chế tạo

- Đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp nói chung và doanh nghiệp CNHT chế biến chế tạo nói riêng. Nhà nước chỉ nắm giữ cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu trong lĩnh vực công nghiệp, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

- Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp đất nước nói chung và đối với công nghiệp hỗ trợ chế biến, chế tạo nói riêng. Chú trọng xây dựng và triển khai các chính sách nâng cao năng lực công nghệ, quản trị cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ hình thành các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn trong lĩnh vực công nghiệp.

- Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp hỗ trợ thuộc mọi thành phần kinh tế. Hình thành và phát triển hệ thống các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn phát triển công nghiệp. Xây dựng tiêu chí ưu tiên trong lựa chọn phát triển công nghiệp hỗ trợ, tập trung vào các khâu còn yếu của chuỗi giá trị sản phẩm hoặc công đoạn quyết định đến chất lượng, giá trị sản phẩm của ngành. Hỗ trợ phát triển các nhà cung ứng trong các ngành công nghiệp ưu tiên, coi đây là cốt lõi của chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Đổi mới chính sách và đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Chuyển mạnh chính sách thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp từ số lượng sang chất lượng và có trọng tâm, trọng điểm. Định hướng lựa chọn và khuyến khích dự án FDI vào các ngành công nghiệp đến năm 2035 theo hướng: Ưu tiên các dự án sử dụng công nghệ "cao, mới, sạch, tiết kiệm", sử dụng nhiều nguyên liệu, linh phụ kiện sản xuất trong nước, có tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển khoa học-công nghệ trong nước cao, có cam kết chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực tại chỗ; ưu tiên hình thức liên doanh, liên kết sản xuất với các doanh nghiệp trong nước; ưu tiên các công ty đa quốc gia có thương hiệu quốc tế và có năng lực cạnh tranh cao, các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

Quy định chặt chẽ về chế độ báo cáo thông tin của các doanh nghiệp FDI với các cơ quan quản lý nhà nước, tăng cường bảo đảm quốc phòng, an ninh kinh tế. Xây dựng và công khai danh mục các dự án đầu tư công nghiệp hỗ trợ quốc gia và triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút FDI có chất lượng cao. Nghiên cứu, xây dựng các mô hình mới thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp CBCT và hỗ trợ chế biến, chế tạo.

- Tiếp tục tăng cường các hoạt động kết nối hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.

- Nhấn mạnh các nội dung về phát triển kinh tế số và chuyển đổi số với việc ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao là nền tảng cơ bản để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của sản phẩm CNHT chế biến chế tạo, củng cố và tăng cường vai trò nền tảng của CNHT chế biến, chế tạo gắn liền với việc tiếp tục cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực công nghiệp theo chiều sâu.

- Tiếp tục hỗ trợ thúc đẩy hình thành các tập đoàn/doanh nghiệp lớn Việt Nam trong lĩnh vực công nghiệp CBCT trở thành các doanh nghiêp dẫn dắt chuỗi cung ứng/chuỗi giá trị hàng chế biến, chế tạo; tập hợp và hỗ trợ đào tạo cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để có đủ năng lực tham gia với tư cách nhà thầu phụ, nhà cung ứng các cấp cho chuỗi giá trị của các tập đoàn lớn quốc gia; tập trung tháo gỡ khó khăn, xây dựng và thực hiện các chính sách để hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp, các chủ thể tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng ngành hàng CBCT.

- Khuyến khích, hỗ trợ hình thành và phát triển tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong sản xuất, cung ứng sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo quốc gia có thương hiệu và năng lực cạnh tranh toàn cầu, có đủ năng lực dẫn dắt các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực/toàn cầu hàng CBCT, từ đó có thể tập hợp, phát triển các nhà cung ứng, các nhà thầu phụ nhỏ và vừa Việt Nam cho phát triển chuỗi giá trị công nghiệp CBCT Việt Nam tham gia sâu trong chuỗi giá trị toàn cầu.

- Tăng cường liên kết, kết nối các nhà sản xuất, cung ứng sản phẩm CNHT trong nước với các công ty đa quốc gia tại Việt Nam nhằm tạo tác động tích cực, lan tỏa của khu vực FDI trong phát triển chuỗi giá trị/chuỗi cung ứng hàng CBCT Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2030, có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia và đến năm 2035 sẽ có khoảng 3.000 – 3.500 DN đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các công ty ĐQG.

- Tăng cường hỗ trợ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, hỗ trợ tiếp cận vốn, tín dụng và hỗ trợ ứng dụng công nghệ cho khu vực DNNVV trong lĩnh vực CNHT chế biến chế tạo

- Phấn đấu tăng nhanh số lượng doanh nghiệp CNHT chế biến, chế tạo thuộc mọi thành phần kinh tế đi đôi với cải thiện mạnh mẽ chất lượng và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp CNHT ngành chế biến, chế tạo Việt Nam, nhằm nhanh chóng bắt kịp trình độ phát triển CNHT của các nước đi trước trong khu vực và vượt lên cạnh tranh hiệu quả với các đối thủ này trong tham gia sâu trong chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực ngành chế biến, chế tạo. Phấn đấu đến năm 2025, tỷ trọng doanh nghiệp CNHT vươn lên chiếm 5% tổng số DN công nghiệp CBCT, đến năm 2030 chiếm khoảng 8-10% tổng số DN công nghiệp CBCT và đến năm 2035 tỷ trọng này là khoảng 12-15%.

- Phấn đấu đến năm 2035, hình thành và phát triển được một số doanh nghiệp, tập đoàn công nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam có thương hiệu và năng lực cạnh tranh toàn cầu, có đủ năng lực dẫn dắt các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng khu vực/toàn cầu hàng CBCT, từ đó có thể kết nối, tập hợp, phát triển các nhà cung ứng, các nhà thầu phụ nhỏ và vừa Việt Nam cho phát triển chuỗi giá trị công nghiệp CBCT Việt Nam tham gia sâu trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Năm là, chú trọng vào các biện pháp, chính sách nâng cấp và phát triển các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của các mặt hàng CBCT trọng điểm, thúc đẩy phát triển CNHT theo chiều sâu, nâng cao hàm lượng giá trị nội địa và giá trị gia tăng, xây dựng, phát triển thương hiệu cho hàng CNHT và doanh nghiệp CNHT để vươn lên các nấc thang giá trị gia tăng cao hơn cả nơi thượng nguồn và hạ nguồn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

- Tập trung phát triển hoàn chỉnh hệ thống sản xuất và thị trường cho sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cả ở thị trường trong nước và quốc tế thông qua việc nâng cấp và phát triển chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị của ngành hàng CBCT; chú trọng nội địa hóa chuỗi cung ứng/chuỗi giá trị ngành hàng CBCT để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu và tăng cường tính tự chủ của ngành Công Thương và nền kinh tế.

- Cơ cấu lại không gian lãnh thổ phát triển các ngành công nghiệp CBCT theo hướng hình thành hệ thống cụm liên kết các ngành công nghiệp chuyên môn hóa và các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao, khu công nghiệp sinh thái theo lợi thế địa kinh tế của các địa phương/vùng, miền trên cả nước;

- Cơ cấu lại lĩnh vực công nghiệp theo hướng đổi mới sáng tạo và số hóa, công nghệ hóa phương thức sản xuất kinh doanh; tăng cường kết nối, tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, các hệ sinh thái toàn cầu và khu vực.

- Tập trung các ưu tiên, khuyến khích về chính sách và nguồn lực cho phát triển CNHT, công nghiệp chế biến chế tạo trọng điểm; phát triển hạ tầng phân phối và logistics, đẩy nhanh ứng dụng TMĐT và kinh tế số trong vận hành và quản trị chuỗi cung ứng/ chuỗi sản xuất nhằm nâng cấp lên các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu đối với ngành công nghiệp CBCT xuất khẩu có sức cạnh tranh quốc tế.

Sáu là, thúc đẩy việc hình thành và phát triển kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nói chung và hạ tầng công nghiệp của công nghiệp hỗ trợ CBCT nói riêng dựa trên những đặc thù của hàng CBCT, trong đó, quan trọng là hệ thống kho tàng, bến cảng, giao thông, logistics, cung cấp điện, hệ thống kết nối, trao đổi, lưu trữ thông tin và dữ liệu 5G… TMĐT, số hóa, đảm bảo đồng bộ, hiện đại và bền vững, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của kinh tế, thị trường Việt Nam, trong từng giai đoạn, đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa trong nước và hỗ trợ xuất khẩu; tập trung hình thành được một hệ thống trung tâm logistics cơ bản hoàn chỉnh, có tính liên kết cao, ưu tiên xây dựng được một số trung tâm logistics lớn ở các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho các chuỗi cung ứng của Việt Nam.

Bảy là, tiếp tục tăng cường hỗ trợ đào tạo và tư vấn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, trong đó chú trọng lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ CBCT theo hướng chuyên nghiệp, sáng tạo, năng động và có trách nhiệm, đạo đức, bản lĩnh  đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của quá trình phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp trong nước, xuất nhập khẩu và hội nhập mạnh mẽ, hiệu quả trong mạng sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu.

Tám là, thúc đẩy hình thành và phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng xanh hóa, thân thiện môi trường và phát triển bền vững: Chú trọng thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ chế biến, chế tạo trọng điểm xanh hóa theo chuỗi sản xuất/cung ứng xanh từ sản xuất tới phân phối và logistics, tiêu dùng xanh, sạch, thân thiện môi trường; tập trung phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch; đảm bảo sản xuất, phân phối và sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; thúc đẩy sản xuất, phân phối, tiêu dùng xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn cho công nghiệp chế biến chế tạo./.

 Tài liệu tham khảo

[1] Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

[2] Bộ Chính trị (2024), Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

[3] Chính phủ (2020), Nghị quyết số 115/NQ-CP ngày 6/8/2020 về các giải pháp thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2021-2030, Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XIII.

[5] Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định 1415/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/11/2022 phê duyệt Đề án “Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030”