Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh

15:25 - 07/08/2025

ThS. Hoàng Thị Thái Ngân[1]

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Tóm tắt: Vấn đề ô nhiễm không khí hiện nay là thách thức toàn cầu; tại Việt Nam, ô nhiễm không khí tại nhiều địa phương trên toàn quốc đã và đang có chiều hướng ngày càng gia tăng cả về quy mô, mức độ, nhất là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Để khắc phục vấn đề ô nhiễm không khí do các phương tiện giao thông gây nên, thực hiện các cam kết quốc tế về Net zero. Trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp đồng bộ. Một trong những giải pháp quan trọng đó là phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông tái sử dụng điện, năng lượng xanh.

1. Đặt vấn đề

Theo báo cáo gửi Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (NDC), kết quả phát thải khí nhà kính ngành giao thông vận tải (GTVT) năm 2016 là 35,8 triệu tấn CO2tđ (chiếm khoảng 17,4% phát thải của lĩnh vực năng lượng), năm 2020 là khoảng 47 triệu tấn CO2tđ và nếu không có các biện pháp giảm thiểu mạnh mẽ thì phát thải khí nhà kính (KNK) từ lĩnh vực GTVT được dự báo tiếp tục tăng nhanh với tốc độ bình quân 6%-7%/năm, đạt gần 90 triệu tấn CO2tđ vào năm 2030 (tăng 1,87 lần so với năm 2020). Việt Nam là một trong 20 quốc gia đầu tiên gửi NDC cập nhật về Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu (BĐKH) - UNFCCC, xác định đóng góp về giảm nhẹ phát thải KNK, thích ứng với BĐKH. Cụ thể trong NDC2022, về giảm nhẹ phát thải KNK, bằng nguồn lực trong nước, đến năm 2030, Việt Nam sẽ giảm 15,8% tổng lượng phát thải KNK (không điều kiện) so với kịch bản phát triển thông thường (BAU) và tăng đóng góp lên tới 43,5% (có điều kiện).

Tại COP26, Chính phủ Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ cùng gần 150 quốc gia đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Việc thực hiện các cam kết tại COP26 có thể nói là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược, mang lại lợi ích to lớn và lâu dài cho đất nước, cần tận dụng cơ hội này để thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, bền vững và phát thải các-bon thấp. Tại COP27, Việt Nam tiếp tục cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào 2050. Tại COP28, Việt Nam đã công bố Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP).

Phát triển giao thông vận tải sử dụng điện và năng lượng xanh là xu hướng tất yếu toàn cầu. Tại Hội nghị COP26, 80 chính phủ đã nhất trí nâng cao trọng tâm chính sách thúc đẩy xe điện, sử dụng công cụ trợ cấp, giảm thuế, khuyến khích tiêu dùng và đầu tư cơ sở hạ tầng. Năm 2022, đã có khoảng 26 triệu xe điện được bán trên toàn cầu (bao gồm cả các xe plug-in hybrid), tăng 60% so với năm 2021. Trước đó theo thống kê, năm 2022, doanh số xe điện (EV) tại Đông Nam Á chiếm khoảng 2% tổng doanh số bán ô tô. Thái Lan đứng đầu khi ô tô điện chiếm tới 58% doanh số bán ô tô, tiếp theo là Indonesia và Việt Nam với lần lượt là 19,5% và 15,8%. Các quốc gia như: Ấn Độ, New Zealand, Úc đặt mục tiêu đạt 30% doanh số bán phương tiện không phát thải vào năm 2030 và 100% vào năm 2040. Canada, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hàn Quốc tài trợ hoặc trợ cấp cho việc mua xe điện, mua sắm phương tiện công cộng và cơ sở hạ tầng trạm sạc…

Quyết định số 2157/QĐ-TTg ngày 21/12/2021 thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26. Thông báo số 30/TB-VPCP, cuộc họp lần thứ nhất Ban Chỉ đạo quốc gia xác định 8 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có 2 nhiệm vụ liên quan đến chuyển đổi năng lượng xanh và phát triển phương tiện thân thiện MT: (a) Chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch sang các nguồn năng lượng xanh, năng lượng sạch; (b) Khuyến khích nghiên cứu, phát triển và sử dụng ô tô điện.

Đối với lĩnh vực GTVT, Chính phủ cũng đã phê duyệt “Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan của ngành GTVT” tại Quyết định số 876/QĐ-TTg ngày 22/7/2022.

Có thể nói, xu hướng chung của các quốc gia phát triển trên thế giới (Đan Mạch, Hà Lan, Anh, Pháp, Tây Ban Nha,...) và trong khu vực (Trung Quốc, Singapore, Thái Lan,...) là hạn chế, tiến tới cấm các phương tiện giao thông sử dụng xăng và dầu trong đô thị tới năm 2025, mở rộng trên toàn quốc thời kỳ 2030 - 2040. Bên cạnh việc đặt ra các lộ trình phát triển cụ thể là việc xây dựng các chính sách ưu tiên phát triển, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông vận tải, hệ thống vận tải công cộng thân thiện môi trường (xe buýt CNG/điện, taxi, đường sắt đô thị,...). Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung của thế giới. Mặc dù được coi là xu thế tất yếu, nhưng quá trình chuyển đổi sang xe điện tại Việt Nam vẫn còn nhiều nhiều thách thức như: Các chính sách hỗ trợ phát triển ngành giao thông vận tải sử dụng điện chưa hoàn thiện; khả năng bao phủ của hệ thống cơ sở hạ tầng trạm sạc, công nghệ sạc pin kéo dài nên chưa thuận tiện cho người sử dụng, giá thành sản xuất xe điện còn cao… Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam chưa có một Chương trình tổng thể của quốc gia về phát triển phương tiện giao thông vận tải và hệ thống giao thông vận tải công cộng thân thiện với môi trường. Vì vậy, việc thực hiện nhiệm vụ “Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện, trang thiết bị giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh” là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa về mặt thực tiễn cao.

Việt Nam đã thể hiện rõ cam kết quốc tế trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong NDC cập nhật 2022, Việt Nam cam kết giảm 15,8% lượng phát thải KNK vào năm 2030 bằng nguồn lực trong nước, và có thể tăng lên đến 43,5% nếu có hỗ trợ quốc tế. Tại COP26, Việt Nam cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và tiếp tục tái khẳng định cam kết này tại COP27 và COP28. Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định quan trọng như Quyết định số 2157/QĐ-TTg (năm 2021) về thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia thực hiện cam kết COP26 và Quyết định số 876/QĐ-TTg (năm 2022) phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh trong lĩnh vực GTVT.

2. Vai trò của ngành sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh

- Góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu đang trở thành vấn đề toàn cầu nghiêm trọng, ngành sản xuất phương tiện sử dụng điện và năng lượng tái tạo đóng vai trò then chốt trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Các phương tiện giao thông truyền thống sử dụng nhiên liệu hóa thạch như xăng và dầu diesel là một trong những nguồn phát thải lớn nhất của CO2, NOₓ, SOₓ và bụi mịn - những chất gây hại cho sức khỏe con người và môi trường. Ngược lại, phương tiện sử dụng điện - đặc biệt khi kết hợp với năng lượng tái tạo như điện mặt trời và điện gió - hầu như không phát sinh khí thải trong quá trình vận hành. Việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ loại phương tiện này giúp cải thiện đáng kể chất lượng không khí tại các đô thị, giảm thiểu hiệu ứng nhà kính, từ đó đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về giảm phát thải carbon.

- Góp phần thúc đẩy chuyển đổi năng lượng và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Tuy nhiên, việc khai thác và sử dụng nguồn năng lượng này vẫn còn chưa tương xứng. Ngành giao thông sử dụng điện và năng lượng xanh đóng vai trò cầu nối thúc đẩy tiêu thụ năng lượng tái tạo trong đời sống hàng ngày, tạo động lực cho phát triển hạ tầng điện sạch và mạng lưới phân phối năng lượng thông minh. Việc chuyển đổi dần từ phương tiện chạy bằng xăng dầu sang xe điện sẽ góp phần giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu, nâng cao an ninh năng lượng quốc gia. Bên cạnh đó, sự phát triển đồng bộ giữa ngành giao thông và ngành năng lượng tái tạo sẽ tạo ra một chuỗi giá trị liên kết chặt chẽ và bền vững, tối ưu hóa hiệu suất sử dụng năng lượng, đồng thời khuyến khích tiết kiệm và tái sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

- Thể hiện vai trò trung tâm trong quá trình đổi mới công nghệ và hiện đại hóa công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của xe điện và các phương tiện sử dụng năng lượng xanh đòi hỏi việc đổi mới công nghệ toàn diện trên nhiều phương diện: từ sản xuất pin lithium-ion, công nghệ pin nhiên liệu hydro, động cơ điện hiệu suất cao, cho đến hệ thống điều khiển thông minh, trí tuệ nhân tạo (AI), kết nối Internet vạn vật (IoT), và xe tự lái. Đây là nền tảng để nâng cấp năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sản xuất trong nước. Quá trình chuyển đổi này không chỉ giúp Việt Nam bắt kịp với xu hướng công nghiệp hiện đại, mà còn tạo ra áp lực tích cực buộc các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế tạo, điện tử và phần mềm phải đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Điều này góp phần hình thành một nền công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và giảm lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài.

- Góp phần phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và mở rộng chuỗi cung ứng nội địa các sản phẩm ngành công nghiệp. Ngành sản xuất phương tiện sử dụng điện và năng lượng xanh đòi hỏi một hệ sinh thái linh kiện, phụ tùng và thiết bị công nghệ cao vô cùng đa dạng, từ pin điện, mô-tơ, bộ điều khiển điện tử, cảm biến, đến vật liệu nhẹ như nhôm, composite hay sợi carbon. Việc nội địa hóa các linh kiện này mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Hơn nữa, sự phát triển của ngành xe điện kéo theo nhu cầu phát triển các trạm sạc, phần mềm điều hành, hệ thống bảo trì, logistics thông minh… qua đó tạo điều kiện hình thành mạng lưới sản xuất và dịch vụ hỗ trợ đồng bộ. Điều này không chỉ giúp giảm giá thành sản phẩm nhờ tiết kiệm chi phí nhập khẩu, mà còn thúc đẩy năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp quốc gia và tạo nền tảng cho việc tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

- Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và mở rộng xuất khẩu các sản phẩm của ngành công nghiệp. Ngành sản xuất phương tiện sử dụng điện và năng lượng xanh đang trở thành động lực tăng trưởng mới của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Nhu cầu xe điện toàn cầu ngày càng tăng nhanh, đặc biệt tại các thị trường lớn như EU, Mỹ, Trung Quốc, tạo ra cơ hội xuất khẩu lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các sản phẩm như xe buýt điện, xe máy điện, linh kiện điện tử, phần mềm quản lý năng lượng hay các hệ thống điều khiển có thể được phát triển trong nước và xuất khẩu ra quốc tế. Ngoài ra, ngành còn có sức hút mạnh mẽ với các nhà đầu tư nước ngoài nhờ tiềm năng thị trường, nguồn lao động dồi dào và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Việc thu hút FDI vào lĩnh vực này không chỉ giúp tăng trưởng GDP, mà còn nâng cao giá trị gia tăng nội địa thông qua chuyển giao công nghệ, liên kết sản xuất và đào tạo nhân lực.

- Góp phần tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế. Sự chuyển đổi sang sản xuất phương tiện sử dụng điện và năng lượng xanh kéo theo nhu cầu lớn về nhân lực kỹ thuật cao trong các lĩnh vực như cơ khí điện tử, công nghệ thông tin, kỹ thuật năng lượng, tự động hóa và công nghiệp vật liệu mới. Bên cạnh các công việc truyền thống như sản xuất và lắp ráp xe, còn có hàng loạt công việc mới như phát triển phần mềm xe điện, thiết kế hệ thống pin, kỹ thuật viên trạm sạc, chuyên gia AI và dữ liệu lớn. Đây là cơ hội để đào tạo và nâng cao trình độ lao động trong nước, giúp dịch chuyển cơ cấu lao động từ các ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn sang các ngành công nghệ cao, phù hợp với định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0.

- Nâng cao hình ảnh quốc gia và thể hiện các cam kết về phát triển bền vững. Việc phát triển ngành sản xuất phương tiện giao thông sử dụng điện và năng lượng xanh cho thấy tầm nhìn dài hạn và trách nhiệm của Việt Nam trong công cuộc chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và bền vững. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất xe điện, đầu tư vào nghiên cứu công nghệ xanh, cùng với cam kết quốc tế về trung hòa carbon vào năm 2050, đã thể hiện rõ quyết tâm của Chính phủ trong việc tham gia chủ động vào các nỗ lực toàn cầu vì môi trường. Điều này góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo hình ảnh quốc gia năng động, thân thiện với môi trường, qua đó thu hút thêm các đối tác quốc tế, các tổ chức tài chính xanh, và các doanh nghiệp đầu tư công nghệ cao.

3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh ở Việt Nam giai đoạn 2016 – 2023

3.1 Những thành tựu đạt được

- Trong giai đoạn 2016 - 2023, ngành công nghiệp sản xuất ô tô của Việt Nam nói chung và sản xuất xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh nói riêng đã có tăng trưởng mạnh, đã thu hút được nguồn lực của mọi thành phần kinh tế vào đầu tư phát triển ngành, qua đó đã đóng góp vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là đối với các quốc gia đông dân cư như Việt Nam.

- Việt Nam đã bắt đầu quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng trạm sạc cho xe điện tạo điều kiện cho sản xuất lắp ráp ô tô, qua đó các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp trong nước đã bước đầu khẳng định vai trò, vị trị đối với thị trường ô tô trong nước và đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất,…

 - Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô hiện tại đã có những định hướng rất đúng đắn trong việc phát triển các dòng xe thân thiện môi trường (xe tiết kiệm nhiên liệu, xe hybrid, xe sử dụng nhiên liệu sinh học, xe chạy điện…).

- Chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô đã và đang được hoàn thiện nhằm cụ thể hóa định hướng phát triển các dòng xe thân thiện môi trường (xe tiết kiệm nhiên liệu, xe hybrid, xe sử dụng nhiên liệu sinh học, xe chạy điện…).

- Xu hướng tiêu dùng xe thân thiện với môi trường đang ngày càng có xu hướng gia tăng. Thị trường xe điện tại Việt Nam hiện cũng được đánh giá là thị trường hấp dẫn với số lượng các nhà sản xuất và lắp ráp các sản phẩm xe điện đang tăng nhanh. 

- Ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô đang ngày càng phát triển, có sức lan tỏa mạnh mẽ, phát triển công nghiệp ô tô sẽ kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ rộng lớn.

3.2 Những hạn chế và nguyên nhân

- Hạn chế

- Các chiến lược và chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp ô tô chưa sát thực tế, thiếu khả thi và nhất quán. Các chính sách cho phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh còn chưa hoàn thiện. Chưa tập trung đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông xanh một cách đồng bộ.

- Phần  lớn các doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô tại Việt Nam hiện chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô, cũng như chưa tham gia nhiều vào chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu trong ngành ô tô.

- Các chính sách hỗ trợ cho phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh của Việt Nam còn khá hạn chế. Cho đến nay, mới chỉ có chính sách hỗ trợ thuế tiêu thụ đặc biệt và lệ phí trước bạ cho xe điện chạy pin và chưa có lộ trình cụ thể cho việc phát triển các dòng xe điện hóa khác tại Việt Nam. Đây là điểm cần lưu ý để cập nhật chính sách một cách hiệu quả hơn.

- Quy mô thị trường ô tô tại Việt Nam hiện tại tương đối nhỏ, với hơn 10 nhà sản xuất gốc (OEM: Original Equipment Manufacturing) tham gia, bao gồm Toyota, Honda, Suzuki, Isuzu, Mitsubishi, Nissan, Ford, Mercedes Benz, Thaco, TC Motor, VinFast và nhiều hãng khác. Tuy nhiên, do số lượng mẫu xe quá đa dạng, các hãng không thể tạo ra lợi thế kinh tế theo quy mô, không đủ sản lượng để nội địa hóa phụ tùng và linh kiện, buộc các công ty lắp ráp phải nhập khẩu.

- Ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam hiện mới chỉ tham gia vào phân khúc thấp của chuỗi giá trị ngành ô tô; phụ thuộc lớn vào sự phân công sản xuất của các Tập đoàn ô tô toàn cầu, chưa làm chủ được các công nghệ cốt lõi như động cơ, hệ thống điều khiển, hệ thống truyền động. Do vậy, đây là hạ chế lớn đối với năng lực sản xuất các phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh của các doanh nghiệp Việt Nam.

- Khó khăn lớn nhất của ngành công nghiệp ôtô Việt Nam hiện nay vẫn là quy mô thị trường nhỏ bé chỉ bằng 1/4 hoặc 1/5 so với Thái Lan và In-đô-nê-xi-a; tỷ lệ khấu hao cao, sản lượng tiêu thụ thấp nên giá xe ô tô sản xuất và lắp ráp tại Việt Nam cao hơn nhiều so với giá xe khu vực và thế giới.

- Nguyên nhân

Những hạn chế nêu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân cả về khách quan lẫn chủ quan, cụ thể như sau:

- Hệ thống cơ sở hạ tầng cho phát triển ngành công nghiệp sản xuất các phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh chưa phát triển, đáp ứng được yêu cầu phát triển của thị trường. Bên cạnh đó, thu nhập của người dân vẫn còn thấp, chưa đủ điều kiện để người tiêu dùng có thể sẵn sàng cho mua sắm, tiêu dùng phương tiện vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh.

- Các chính sách ảnh hưởng tới sử dụng phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh (ví dụ chính sách hạn chế lưu thông xe trên một số tuyến đường, chính sách đăng ký…).

- Dung lượng thị trường ô tô còn hạn chế, chưa cho phép đạt dược hiệu quả kinh tế theo quy mô, do đó đã hạn chế khả năng thu hút đầu tư vào phát triển ngành ô tô nói chung và sản xuất các phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh nói riêng.

- Ngành công nghiệp hỗ trợ chưa đủ khả năng tiếp cận các chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng của nhà sản xuất ô tô nước ngoài. Nguyên nhân xuất phát từ: Nguồn lực về vốn, công nghệ, con người; Năng lực nghiên cứu và triển khai; Số lượng và chất lượng của lao động trong ngành sản xuất phương tiện gia thông và sự liên kết trong mạng lưới sản xuất giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và lắp ráp ô tô, cũng như giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, và giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau hiện còn hạn chế.

- Hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật liên quan đến phát triển hệ sinh thái phương tiện điện, phương tiện thân thiện với môi trường đã và đang được xây dựng nhưng còn chưa đầy đủ, như: Chưa có một quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới hạ tầng trạm sạc xe điện công cộng trên toàn quốc bảo đảm độ mức độ bao phủ, hiệu quả dùng chung, tránh lãng phí hạ tầng và tài nguyên. Việc phát triển hệ thống trạm sạc hiện nay chủ yếu do khối tư nhân chủ động xây dựng, song hành cùng việc cung cấp dịch vụ sẽ dẫn đến những hạn chế nhất định trong việc chia sẻ hạ tầng trạm sạc này trong tương lai. Chưa ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ô tô điện, lắp đặt trạm sạc xe điện và các tiêu chuẩn có liên quan.

- Việt Nam là quốc gia chỉ có khoảng 1/4 diện tích là đồng bằng, còn lại phần lớn địa hình là đồi núi. Bên cạnh đó, Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3.200 km với 28 địa phương giáp biển nên thường xuyên hứng chịu mưa, bão, lũ lụt, triều cường,... theo mức độ, diễn biến cụ thể tại mỗi địa phương. Đây là một trong các rào cản do điều kiện tự nhiên đến hoạt động vận tải nói chung cũng như hoạt động vận tải công cộng thân thiện với môi trường tại Việt Nam.

- Hiện nay trên toàn quốc có khoảng 5,4 triệu ô tô và hơn 72 triệu xe máy đã đăng ký, trong đó chủ yếu là phương tiện cơ giới cá nhân. Các số liệu trên đây phản ánh thói quen sử dụng phương tiện cá nhân của người dân do sự tiện lợi, linh hoạt, phù hợp thu nhập,... Đây là một trong các rào cản lớn cần tháo gỡ để thúc đẩy việc chuyển đổi nhu cầu, thói quen sử dụng phương tiện cá nhân sang sử dụng phương tiện vận tải của người dân, đặc biệt khuyến khích việc sử dụng vận tải công cộng thân thiện với môi trường.

- Cơ sở hạ tầng, hệ sinh thái cho phương tiện giao thông điện và phương tiện thân thiện môi trường mới được đầu tư tại Việt Nam trong vài năm trở lại đây, với sự chủ động của khối tư nhân. Quy mô thị trường nhỏ, đặc biệt đối với phương tiện ô tô điện sản xuất trong nước mới xuất hiện trong thời gian gần đây nên còn hạn chế về sự đa dạng của các mẫu xe, còn ít sự lựa chọn. Bên cạnh đó người sử dụng còn tâm lý cần thêm thời gian kiểm chứng về chất lượng, hiệu năng hoạt động của phương tiện, các dịch vụ đi kèm,... cũng là một trong các rào cản để phát triển thị trường trong giai đoạn khởi động này.   

- Rào cản về vốn đầu tư để chuyển đổi cũng là một trong những thách thức lớn đối với ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh.

- Nguồn nhân lực về quản lý, điều hành, bảo dưỡng sửa chữa và vận hành trực tiếp phương tiện sử dụng điện, thân thiện với môi trường cũng là một trong các rào cản với các doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi.

4. Quan điểm, định hướng và giải pháp

4.1 Quan điểm

- Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh phải đảm bảo phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; phù hợp với các chiến lược, quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch các ngành của quốc gia và địa phương; xác định phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh là định hướng chính trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam.

- Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh trên cơ sở đi tắt, đón đầu các xu hướng chuyển dịch mạnh mẽ về sản xuất và tiêu dùng từ xe sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang tiết kiệm nhiên liệu, xe thân thiện với môi trường (xe điện hóa, xe hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác)… góp phần thực hiện mục tiêu giảm phát thải CO­2 theo cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26.

- Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh cần tạo đột phá cho hoạt động nghiên cứu, mua bán, chuyển giao công nghệ sản xuất, lắp ráp ô tô thân thiện với môi trường theo xu hướng của các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh nhằm đáp ứng với xu hướng chuyển đổi xanh, xu hướng dịch chuyển về nhu cầu tiêu dùng của người dân.

- Phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải sử dụng điện, năng lượng xanh trên cơ sở tập trung, ưu tiên đầu tư phát triển doanh nghiệp trên cơ sở khuyến khích, ưu đãi đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất và hướng tới mục tiêu tham gia sâu vào chuỗi giá trị ô tô toàn cầu.

4.2 Định hướng

- Đẩy mạnh tốc độ hoàn thiện cơ sở hạ tầng sạc điện, trạm bơm nhiên liệu xanh an toàn và thuận tiện. Việc xây dựng hệ thống trạm sạc, trạm bơm nhiên liệu xanh tiện lợi với mật độ phù hợp, tích hợp công nghệ sạc nhanh và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về phòng cháy chữa cháy cho hạ tầng sạc điện sẽ giúp họ dễ dàng tiếp cận xe điện hơn.

- Cung cấp ưu đãi tài chính và hỗ trợ vay lãi suất thấp cho mua xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình hoặc thấp. Có những chính sách hỗ trợ phù hợp như gói vay ưu đãi, miễn giảm thuế, giảm phí đăng ký xe hoặc hỗ trợ tài chính chính trực tiếp. Đồng thời, cần hỗ trợ và xây dựng khung pháp lý cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chia sẻ xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh nhằm tạo thêm lựa chọn di chuyển tiết kiệm, linh hoạt và bền vững.

- Tổ chức các chương trình giáo dục, hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật về xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh. Xây dựng và phối hợp với các tổ chức xã hội và trường đại học để tổ chức hội thảo, tọa đàm về lợi ích của xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh hướng dẫn cách sử dụng và bảo dưỡng xe, đồng thời đẩy mạnh các chương trình giáo dục về công nghệ xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh.

- Cần chú trọng vào việc cá nhân hóa sản phẩm theo từng phân khúc khách hàng. Tập trung vào những ưu tiên khi mua xe như: an toàn cho gia đình, bảo vệ môi trường, hay tiết kiệm chi phí.

- Cải thiện dịch vụ hậu mãi và hỗ trợ khách hàng. Để cải thiện tính thực tiễn và an toàn của xe điện, các nhà cung cấp có thể thành lập và mở rộng các trung tâm chăm sóc khách hàng với đội ngũ tư vấn viên được đào tạo bài bản, sẵn sàng giải đáp các thắc mắc về vận hành, bảo dưỡng và sạc xe điện, xe sử dụng năng lượng xanh.

- Phối hợp với các bộ, địa phương liên quan tiếp tục rà soát cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với hoạt động sản xuất, nhập khẩu, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện giao thông cơ giới đường bộ sử dụng năng lượng xanh (bao gồm cả chính sách hỗ trợ đầu tư các trạm sạc điện, hỗ trợ chuyển đổi từ phương tiện sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang phương tiện giao thông xanh…).

- Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Quyết định số 28/2014/QĐ-TTg quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện; trong đó cần nghiên cứu, đề xuất và đánh giá tác động của cơ chế hỗ trợ giá điện đối với trạm sạc điện phục vụ phương tiện giao thông xanh.

- Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các quy chuẩn, tiêu chuẩn nhà chung cư, trung tâm thương mại, trong đó quy định các tiêu chuẩn về hệ thống sạc điện cho phương tiện giao thông xanh.

- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng, quy hoạch tỉnh, bảo đảm có các hệ thống trạm sạc điện công cộng, trạm bơm nhiên liệu xanh trong các đô thị phục vụ phương tiện giao thông xanh.

4.3 Một số giải pháp chủ yếu

- Hoàn thiện thể chế, chính sách và thu hút đầu tư : Để phát triển ngành công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông điện và sử dụng năng lượng xanh, cần hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng, thuế, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn và ưu đãi đầu tư. Nhà nước cần thúc đẩy cơ cấu lại thị trường tài chính, khuyến khích quỹ đầu tư mạo hiểm, phát triển thị trường vốn, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới sáng tạo. Đồng thời, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, đa dạng hóa nguồn cung nguyên liệu – thiết bị và tăng cường kiểm soát thị trường, chống gian lận thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước.

- Thúc đẩy sản xuất xanh và phát triển hạ tầng : Tăng cường chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất xe điện, hybrid và nghiên cứu công nghệ xanh như pin, vật liệu tái chế, công nghệ tái tạo năng lượng. Phát triển cơ sở hạ tầng trạm sạc điện, trạm tiếp nhiên liệu xanh, các khu công nghiệp chuyên biệt và hệ thống logistics xanh. Hỗ trợ người tiêu dùng chuyển đổi sang sử dụng phương tiện xanh thông qua ưu đãi thuế, hỗ trợ tài chính, và chính sách thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

- Phát triển thị trường và nguồn nhân lực chất lượng cao: Cần mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa, xây dựng thương hiệu ô tô Việt Nam và thúc đẩy tiêu dùng phương tiện giao thông sử dụng điện, năng lượng xanh. Bên cạnh đó, tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua liên kết với cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, nâng cao kỹ năng cho công nhân, kỹ sư, nhà quản lý phù hợp với yêu cầu công nghệ hiện đại. Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong toàn chuỗi ngành ô tô xanh.

- Hỗ trợ công nghiệp hỗ trợ và công nghệ tiên tiến : Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ thông qua ưu đãi đầu tư, phát triển danh mục sản phẩm chiến lược, ứng dụng công nghệ 4.0 và xây dựng cụm công nghiệp chuyên biệt. Đồng thời, xây dựng lộ trình loại bỏ công nghệ lạc hậu, phát triển cơ sở dữ liệu ngành, tiêu chuẩn kỹ thuật hiện đại và đẩy mạnh R&D trong sản xuất pin, động cơ, linh kiện. Các giải pháp chiến lược cũng bao gồm phát triển hạ tầng sạc, chính sách khuyến khích xe thân thiện với môi trường và nâng cao nhận thức người dân về xe xanh.

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Công thương (2017), “Báo cáo tình hình phát triển công nghiệp ô tô Việt Nam”, Tọa đàm giữa Bộ Công thương với doanh nghiệp ngành ô tô, Hà Nội, ngày 28/2/2017;
  2. Quyết định số 1168/QĐ-TTg, ngày 16 tháng 7 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”;
  3. Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam, 2021 - “Báo cáo của Nhóm Công tác Công nghiệp Ô tô - Xe máy”;
  4. Tạp chí ô tô Việt Nam, Thống kê số liệu năm 2014 - 2021;
  5. Tổng cục Hải quan, Thống kê số liệu năm 2014 - 2021;
  6. Tổng cục Thống kê, Tổng hợp số liệu năm 2014 - 2021;
  7. Đức Dũng (2017). Vực dậy ngành ôtô: Không chỉ là ý chí của doanh nghiệp, http://www.vietnamplus.vn/vuc-day-nganh-oto-khong-chi-la-y-chi-cua-doanh-nghiep/441563.vnp;
  8. Nguyễn Tuyền (2017). "Hạn chót" cho ô tô Việt: Giấc mơ dang dở và bài toán bảo hộ thị trường, http://dantri.com.vn/kinh-doanh/han-chot-cho-o-to-viet-giac-mo-dang-do-va-bai-toan-bao-ho-thi-truong-20170319070325888.htm;
  9. Ngô Đức Anh (2006), “Công nghiệp phụ trợ Việt Nam dưới con mắt của nhà sản xuất Nhật Bản”, Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), Hà Nội;
  10. TS Nguyễn Thị Tường Anh (2014), “Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ của một số nước và hàm ý cho Việt Nam", Tạp chí Tài chính, ngày 15/12/2014;
  11. Bộ Công thương (2017), “Báo cáo tình hình phát triển công nghiệp ô tô Việt Nam”, Tài liệu phục vụ buổi tọa đàm giữa Bộ Công thương với doanh nghiệp ngành ô tô, Hà Nội, ngày 28/2/2017;
  12. Bộ Tài chính về hướng dẫn chính sách thuế nhập khẩu ưu đãi đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu để sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm;
  13. Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), Báo cáo tình hình sản xuất ô tô (2014 - 2023), Hà Nội;
  14. Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), Số liệu bán hàng hàng tháng của doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô (2014 - 2023), Hà Nội;
  15. Tạp chí ô tô Việt Nam, Thống kê số liệu năm 2014 - 2023;

 

[1] Nghiên cứu viên, Phòng Kế hoạch – Khoa học