Phát triển hạ tầng thương mại ở khu vực đảo và hải đảo Việt Nam: thực trạng và một số giải pháp

10:44 - 19/09/2024

ThS. Nguyễn Khánh Linh

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Tóm tắt: Việt Nam là quốc gia có bờ biển trải dài từ Bắc xuống Nam và có nhiều đảo lớn nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt là các khu vực đảo và hải đảo. Với khoảng gần 3.000 đảo ven bờ và hai quần đảo xa bờ (Hoàng Sa và Trường Sa), các vùng biển đảo có tiềm năng lớn về kinh tế, thương mại và du lịch. Tuy nhiên, hạ tầng thương mại tại đây dù đã được quan tâm nhưng vẫn chưa phát triển xứng tầm, bên cạnh đó là thách thức từ bối cảnh mới. Do vậy, bài báo phân tích thực trạng, từ đó, đề xuất một số giải pháp chung cũng như giải pháp riêng, cụ thể nhằm phát triển hạ tầng thương mại ở khu vực đảo và hải đảo của Việt Nam đến năm 2030[1].

Từ khóa: Hạ tầng thương mại, phát triển, khu vực đảo và hải đảo

  1. Đặt vấn đề

Có một số nghiên cứu đưa ra khái niệm về Hạ tầng thương mại, tuy nhiên, tựu trung lại, hạ tầng thương mại được hiểu một cách cụ thể là các công trình, vật kiến trúc, thiết bị và các công trình phụ trợ khác phục vụ cho hoạt động thương mại được diễn ra một cách an toàn, thuận tiện, nhanh chóng, trong đó tập trung vào nhóm phục vụ trao đổi hàng hóa.

Theo Luật Biển Việt Nam 2012 định nghĩa: Đảo là một vùng đất tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nước. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau. Hải đảo là một khoảng đất lớn nhô cao giữa mặt biển hoặc đại dương. Hải đảo bao gồm quần đảo, đảo, bãi cạn lúc chìm lúc nổi, bãi ngầm là nơi chứa đựng các loại tài nguyên hải đảo; có giá trị và ý nghĩa quan trọng đối với kinh tế, quốc phòng, an ninh và chủ quyền quốc gia.

Trên cơ sở vị trí địa lý, điều kiện kinh tế, cư dân sinh sống … người ta thường chia các đảo, quần đảo thành các nhóm đảo và quần đảo, cụ thể như sau:

(i) Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo này, tùy điều kiện cụ thể, có thể lập những căn cứ, trung tâm kiểm soát vùng trời, vùng biển, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

(ii) Các đảo lớn có cư dân sinh sống, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, cũng như tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

(iii) Các đảo ven bờ có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là cơ sở để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta.

(iv) Hai quần đảo xa bờ: Quần đảo Hoàng Sa hay huyện đảo Hoàng Sa là đơn vị hành chính trực thuộc thành phố Đà Nẵng; và Quần đảo Trường Sa hay huyện đảo Trường Sa là đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Khánh Hòa[2].

Huyện đảo là một đơn vị hành chính cấp huyện, nằm trên các đảo và quần đảo, có chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực như kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng,... trên địa bàn huyện. Huyện đảo được thành lập trên cơ sở các đảo, quần đảo có diện tích đủ lớn, có khả năng phát triển kinh tế - xã hội, có điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Tóm lại, hạ tầng thương mại khu vực đảo và hải đảo là các công trình, vật kiến trúc, thiết bị và các công trình phụ trợ khác phục vụ cho hoạt động thương mại khu vực đảo và hải đảo được diễn ra một cách an toàn, thuận tiện, nhanh chóng. Các công trình kiến trúc vật thể và các yếu tố, dịch vụ để bảo đảm hoạt động của cơ sở kinh doanh thương mại (bán buôn, bán lẻ) trên địa bàn khu vực đảo và hải đảo. Tại nghiên cứu này, tập trung vào hạ tầng thương mại phục vụ trao đổi hàng hóa.

Trong phạm vi bài viết chỉ đề cập đến các hạ tầng thương mại phục vụ mua bán trao đổi hàng hóa (chợ, cửa hàng, siêu thị, trung tâm hội chợ triển lãm, cửa hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm và trung tâm logistics) tại các đảo của 9 huyện thuộc 7 tỉnh ven biển, bao gồm: huyện đảo Vân Đồn và Cô Tô thuộc tỉnh Quảng Ninh, huyện đảo Bạch Long Vỹ và Cát Hải thuộc thành phố Hải phòng, huyện đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị, huyện đảo Lý Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi, huyện đảo Phú Quý thuộc tỉnh Bình Thuận, huyện đảo Côn Đảo thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, huyện đảo Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang. Huyện đảo Trường Sa, Hoàng Sa và thành phố đảo Phú Quốc với những đặc thù về vị trí, quy mô sẽ được phân tích tại một nghiên cứu khác.

  1. Thực trạng hạ tầng thương mại tại khu vực đảo và hải đảo

Qua thống kê sơ bộ, có thể thấy, trên huyện đảo, hạ tầng thương mại hiện có chủ yếu là chợ, trong đó có chợ dân sinh và chợ hải sản, thậm chí một số là chợ có tính chất đầu mối phân phối hải sản cho các tỉnh lân cận (như chợ hải sản Vân Đồn, Quảng Ninh). Bên cạnh đó, gắn liền với phát triển du lịch, một số đảo phát triển loại hình HTTM hiện đại hơn như cửa hàng tiện lợi, siêu thị, cửa hàng trưng bày, giới thiệu và bán sản phẩm đặc trưng (như huyện đảo Côn Đảo, huyện đảo Phú Quốc...). Hệ thống kết cấu hạ tầng vùng ven biển và trên các đảo nói chung và hạ tầng thương mại nói riêng đã được quan tâm đầu tư, tạo ra sự chuyển biến căn bản về phát triển kinh tế, làm cơ sở vững chắc cho việc tiến ra biển, đồng thời trở thành tuyến phòng thủ vững chắc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo Việt Nam…

Tính chung trên địa bàn 09 huyện khu vực đảo và hải đảo, đến nay đã có 37 chợ, 4 siêu thị và khoảng 25 CHTL, siêu thị mini, cùng với đó là mạng lưới cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm OCOP, sản phẩm đặc trưng của huyện đảo.

Tuy nhiên, hạ tầng thương mại khu vực đảo và hải đảo nói chung còn lạc hậu, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng cả về số lượng và quy mô. Hiện nay, hạ tầng thương mại tại các khu vực đảo chủ yếu là các chợ truyền thống nhỏ lẻ và chợ hải sản phục vụ người dân địa phương. Một số đảo đã phát triển loại hình cửa hàng tiện lợi, siêu thị và trung tâm thương mại (TTTM), nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển kinh tế. Đa số các huyện đảo vẫn thiếu các cơ sở hạ tầng quy mô và hiện đại.

Về mạng lưới chợ: Trong thời kỳ 2016 - 2020, số lượng chợ khu vực đảo và hải đảo có xu hướng tăng. Tổng số chợ trên địa bàn 9 huyện khu vực đảo và hải đảo hiện nay là 37 chợ, trong đó có 1 chợ hạng 1, 4 chợ hạng 2 và 32 chợ hạng 3. Cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân và khách du lịch.

Mạng lưới chợ trên địa bàn các huyện đảo chủ yếu là hạng 3 (chiếm 86,5% tổng số chợ), thậm chí một số huyện đảo chỉ có chợ tạm, điểm chợ, chưa có chợ được xếp hạng, như huyện Cồn Cỏ hay huyện Bạch Long Vỹ.

Trong đó, Côn Đảo có số dân phục vụ bình quân trên 1 chợ lớn nhất và bán kính phục vụ bình quân của một chợ cũng cao nhất, tương ứng 12.000 người/chợ và 4,886 km/chợ. Ngoài hai huyện chưa có chợ thì thấp nhất là huyện Lý Sơn với 550 người/chợ và 0,892 km/chợ

Hạ tầng thương mại khác: Trên địa bàn các huyện đảo đã có 25 cửa hàng tiện lợi và siêu thị mini, 4 siêu thị, chưa có trung tâm thương mại. Bên cạnh đó, hệ thống các cửa hàng bán lẻ phát triển, đáp ứng nhu cầu cung ứng hàng hóa và tiêu dùng của nhân dân và du khách. Trong những năm gần đây, số lượng các cửa hàng tiện lợi phát triển nhiều trên địa bàn các huyện, đặc biệt là huyện đảo có quy mô dân cư lớn, có thế mạnh về kinh tế và du lịch như Vân Đồn, Cát Hải, Côn Đảo.

Ngoài ra, để phục vụ nhu cầu của khách du lịch, một số huyện đảo đã xuất hiện cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm đặc thù của đảo và địa phương (như Tỏi tại Lý Sơn; cửa hàng OCOP tại Vân Đồn bán các sản phẩm như sá sùng Quan Lạn, nước mắm Cái Rồng, ruốc hầu, cá đục khô, cá kim khô, cam Cái Bầu, cam Bản Sen..; cửa hàng bán sản phẩm đặc sản tại Côn Đảo, …). Các sản phẩm được người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh và một số vùng phụ cận yêu thích, tham gia giới thiệu tại các hội chợ và tham gia vào kết nối cung cấp hàng hóa tiêu dùng tại các siêu thị trên địa bàn trong và ngoài các tỉnh, thành phố.

Bên cạnh đó, các chương trình “Đưa hàng Việt về huyện đảo” được tổ chức thu hút sản xuất, kinh doanh, phân phối hàng tiêu dùng trong và ngoài tỉnh tham gia.  Các phiên chợ hàng Việt tại các huyện đảo ngày càng được nâng tầm về công tác tổ chức, lẫn quy mô gian hàng và hình thức phục vụ người tiêu dùng. Chất lượng hàng hóa cung cấp cho người tiêu dùng tại các phiên chợ hàng Việt đều là hàng chất lượng cao, có nguồn gốc rõ ràng, mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý và đáp ứng được nhu cầu thiết thực của người dân tại huyện đảo này. Ngoài các phiên chợ hàng Việt do ngành Công Thương tổ chức, hàng hóa từ đất liền ra các huyện đảo ngày nay thuận lợi hơn trước rất nhiều từ các chuyến tàu ra đảo nhanh mỗi ngày. Nhờ đó, hàng hóa phong phú hơn về mẫu mã, chất lượng cao, giá cả vừa phải.

Với đặc thù là các đảo, đều có cảng, bến tàu và sản phẩm thủy hải sản, nên ở một số huyện đảo xuất hiện hạ tầng kho bãi để lưu trữ sản phẩm thủy hải sản, cơ sở sơ chế thủy hải sản, điểm chợ phân phối thủy hải sản đánh bắt, …

Ngoài ra, phải kể đến sự phát triển của thương mại điện tử. Hạ tầng kỹ thuật và các dịch vụ liên quan trên đảo đã được cải thiện, cho phép người dân có thể tiếp cận với các dịch vụ mua sắm trực tuyến. Người dân trên các huyện đảo hiện đã bắt đầu sử dụng cách thức mua hàng online. Dịch vụ mua sắm trực tuyến đã mang lại nhiều tiện ích và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân trên đảo. Tuy nhiên, do vị trí địa lý xa xôi và điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, việc mua hàng online vẫn còn gặp một số khó khăn như thời gian giao hàng có thể kéo dài và chi phí vận chuyển khá cao.

3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển hạ tầng thương mại phục vụ mua bán hàng hóa khu vực đảo và hải đảo Việt Nam giai đoạn 2011-2020

3.1. Kết quả đạt được

- Việc phát triển hạ tầng thương mại tại các huyện đảo của Việt Nam đã mang lại nhiều kết quả quan trọng, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương, nâng cao đời sống của người dân trên các huyện đảo và tăng cường khả năng hội nhập với các khu vực khác. Nhiều chợ truyền thống, siêu thị và cửa hàng tiện lợi đã được xây dựng mới hoặc nâng cấp, giúp người dân và du khách dễ dàng tiếp cận hàng hóa và dịch vụ thiết yếu, góp phần đáp ứng nhu cầu mua sắm ngày càng văn minh hiện đại của người dân, bước đầu đã thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân khu vực đô thị trong việc lựa chọn thực phẩm, thanh toán không dùng tiền mặt, giải quyết được vấn đề vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm và mỹ quan đô thị mà loại hình thương mại truyền thống còn nhiều hạn chế.

- Hệ thống cảng biển và giao thông vận tải được đầu tư mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và hành khách. Điều này giúp giảm chi phí và thời gian vận chuyển, nâng cao hiệu quả kinh doanh

- Hạ tầng thương mại phát triển đã thúc đẩy sự tăng trưởng của các hoạt động kinh doanh và thương mại. Nhiều doanh nghiệp mới được thành lập, tạo ra nhiều cơ hội việc làm và đóng góp vào sự phát triển kinh tế địa phương.

- Sự phát triển của du lịch đã thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới cho các hộ gia đình trên đảo và doanh nghiệp địa phương. Các dịch vụ lưu trú, ăn uống và giải trí phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách và tăng doanh thu cho địa phương. Các sản phẩm đặc sản của các huyện đảo, như nước mắm Cát Hải, tỏi Lý Sơn, và hải sản tươi sống được tiêu thụ rộng rãi hơn, cả trong nước và xuất khẩu.

- Hạ tầng thương mại gia tăng về số lượng, loại hình và chất lượng dịch vụ  đã thu hút ngày càng nhiều du khách đến các huyện đảo, góp phần phát triển ngành du lịch và các dịch vụ liên quan.

- Sự lan rộng của Internet và các dịch vụ viễn thông đã thúc đẩy sự phát triển của thương mại điện tử tại các huyện đảo. Các huyện đảo bắt đầu áp dụng các công nghệ hiện đại vào quản lý và vận hành hạ tầng thương mại, từ hệ thống quản lý kho hàng, thanh toán điện tử đến thương mại điện tử, giúp nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh. Việc sử dụng Internet và các nền tảng thương mại điện tử giúp người dân và doanh nghiệp tại các huyện đảo dễ dàng tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, từ đó mở rộng quy mô và tăng doanh thu. Người dân địa phương và các doanh nghiệp nhỏ đã bắt đầu tận dụng các nền tảng bán hàng trực tuyến để mở rộng thị trường và tăng doanh thu.

- Việc phát triển hạ tầng thương mại đã tạo ra nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của người dân tại các huyện đảo. Thu nhập của người dân được cải thiện, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện đảo.

- Hệ thống cung cấp hàng hóa phong phú và chất lượng, từ nhu yếu phẩm đến các sản phẩm tiêu dùng, giúp người dân có điều kiện sống tốt hơn.

- Hạ tầng xúc tiến thương mại: Tại một số huyện đảo đã hình thành cửa hàng chuyên doanh các sản phẩm đặc trưng của huyện để bán cho khách du lịch, cửa hàng chuyên bán sản phẩm OCOP.

- Hạ tầng logistics: Với đặc thù khu vực đảo và hải đảo, các huyện đảo đều có bến cảng phục vụ vận chuyển hàng hóa, hành khách từ đảo vào đất liền và ngược lại, đồng thời có cảng cá phục vụ sản xuất. Các hạng mục kết cấu hạ tầng thương mại đã được đầu tư và đã hoàn thành chủ yếu là các chợ chuyên doanh, điểm chợ tại bến cảnh, bãi đỗ xe, kho, bãi giao nhận hàng hóa.

3.2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân

* Hạn chế về phát triển hạ tầng thương mại tại các huyện đảo

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, việc phát triển hạ tầng thương mại tại các huyện đảo của Việt Nam vẫn gặp phải một số hạn chế. Sự phát triển hạ tầng thương mại (HTTM), dịch vụ và hệ thống phân phối hàng hóa có khoảng cách lớn giữa các vùng miền;

HTTM trên địa bàn các huyện đảo còn ít về số lượng và chưa đa dạng về loại hình. Cơ sở vật chất của HTTM đa số còn lạc hậu, xuống cấp. Số lượng và chất lượng dịch vụ mà HTTM cung cấp còn nghèo nàn và chất lượng chưa cao.

Mạng lưới các HTTM thiếu kết nối, phân tán và thiếu chuyên nghiệp

Trên các huyện đảo, xã đảo hầu như chỉ có chợ, số lượng rất ít, chưa tạo được tiền đề cho thương mại phát triển. Thậm chí có 2 huyện đảo đến nay vẫn chưa có chợ là huyện Bạch Long Vỹ và huyện Cồn Cỏ. Hơn nữa, đa số chợ có cơ sở vật chất sơ sài, lạc hậu nên chức năng thu gom, phân phối luồng hàng hóa còn khiêm tốn.

Cơ sở hạ tầng thương mại tại các huyện đảo, xã đảo hầu như chưa có các loại hình hiện đại, văn minh hơn như siêu thị, trung tâm thương mại, cơ sở bán buôn, .... Mạng lưới cửa hàng tạp hóa nhỏ lẻ trong dân là chủ yếu, bên cạnh đó, tại một số huyện đảo, xuất hiện loại hình cửa hàng tiện lợi, điểm giới thiệu hàng OCOP để phục vụ khách du lịch, tuy nhiên, quy mô còn nhỏ và số lượng chưa nhiều.

Thương mại chủ yếu để phục vụ nhu cầu của cư dân trên đảo hoặc du khách, khách vãng lai. Hàng hóa thương mại do đó là các loại nông phẩm thường ngày, đặc sản địa phương. Hàng hóa công nghiệp, chế biến hầu như không có. Như vậy, quy mô thương mại của khu vực đảo và hải đảo còn rất nhỏ so với các tỉnh/ thành phố mà huyện đảo trực thuộc.

Đầu tư hạ tầng thương mại ở các khu vực đảo và hải đảo tuy bước đầu đem lại hiệu quả, song vẫn còn nhiều khó khăn, chỉ một số rất ít huyện đảo đã có xây dựng siêu thị.

* Nguyên nhân của các hạn chế

Những hạn chế này có nguyên nhân sâu xa từ trình độ phát triển kinh tế khu vực đảo và hải đảo nói chung còn thấp. Lực lượng doanh nghiệp tại khu vực đảo và hải đảo nói chung và các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp có dự án hạ tầng thương mại tại khu vực đảo và hải đảo nói riêng chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực đầu tư thấp.

Đồng thời, những khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng cũng là những trở ngại lớn đối với các nhà đầu tư, ... Bên cạnh đó là công tác tổ chức thực hiện quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức. Phần lớn các quy hoạch sau khi được phê duyệt chưa được công bố rộng rãi, chưa xây dựng được kế hoạch thực hiện quy hoạch, đặc biệt là kế hoạch sử dụng quĩ đất cho đầu tư kết cấu hạ tầng thương mại trên địa bàn khu vực đảo và hải đảo của các địa phương.

Nguồn vốn hỗ trợ của ngân sách trung ương cho khu vực đảo và hải đảo, cho hạ tầng tại các huyện đảo thường hạn chế, gây khó khăn cho việc triển khai các dự án lớn và duy trì hạ tầng hiện có, trong khi khu vực đảo và hải đảo có điều kiện hạ tầng kinh tế-kỹ thuật khó khăn,

Công tác xã hội hóa các hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại, đặc biệt là chợ và các hạng mục công trình lớn chưa thu hút được các nhà đầu tư trong và ngoài khu vực đảo và hải đảo, đến nay chưa thu hút được nhà đầu tư nước ngoài nào vào khu vực này. Việc thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân gặp khó khăn do rủi ro cao và thời gian hoàn vốn dài.

Việc kêu gọi nguồn vốn đầu tư phát triển chợ từ doanh nghiệp gặp khó khăn do dân số tại đây thưa thớt, phân tán, giao thông lại không thuận tiện, nhu cầu mua bán ít nên dự kiến việc đầu tư, kinh doanh khó hiệu quả. Nhà nước cũng chưa có dự án trọng điểm, tập trung đầu tư cho lĩnh vực phát triển thương mại tại khu vực này.

Các chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng thương mại tại các huyện đảo còn hạn chế và thiếu linh hoạt. Đến nay, phát triển hạ tầng thương mại khu vực đảo và hải đảo chưa được nghiên cứu như một khu vực với những đặc thù riêng có nhằm tìm ra, đề xuất những giải pháp phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và với thực tế phát triển. Do vậy, việc đánh giá thực trạng phát triển chưa được cụ thể và các giải pháp, chính sách đề xuất chưa có tính đột phá, điển hình, do vậy, hiệu quả thực thi chưa cao.

Thủ tục hành chính rườm rà và phức tạp gây cản trở cho việc triển khai các dự án đầu tư. Hiện mới chỉ có loại hình chợ được hưởng chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư và chính sách hỗ trợ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (gồm ngân sách Trung ương và địa phương), còn các loại hình thương mại khác (siêu thị, trung tâm thương mại, kho, trung tâm logistics…) phát triển chủ yếu huy động từ các nguồn lực của xã hội. Bên cạnh đó, yêu cầu bảo vệ môi trường biển và hệ sinh thái đảo đôi khi mâu thuẫn với các dự án phát triển hạ tầng, đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng và giải pháp bền vững.

Hoạt động thương mại ở các khu vực này chủ yếu mới dừng lại ở đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết cho đời sống sinh hoạt hàng ngày. Hoạt động thu mua, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm nuôi trồng mặc dù đã bước đầu hình thành những chuỗi cung ứng, nhưng chưa trở thành hoạt động phổ biến, thường xuyên, mà một nguyên nhân quan trọng là HTTM chưa đáp ứng với tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn.

Hoạt động sản xuất của người dân ở các khu vực đảo và hải đảo còn mang tính thủ công, nhỏ lẻ, phân tán nên khó khăn trong việc xây dựng, phát triển thương hiệu sản phẩm. Mua bán qua nhiều nấc trung gian, chưa thiết lập được mối liên kết lâu dài giữa sản xuất và lưu thông, giữa bán buôn và bán lẻ. Số người kinh doanh buôn bán, dịch vụ có tăng lên nhưng hoạt động mang tính tự phát, quy mô nhỏ.      

Vị trí xa xôi và cô lập: Các huyện đảo thường nằm xa đất liền, việc vận chuyển vật liệu xây dựng và hàng hóa gặp nhiều khó khăn và chi phí cao

Điều kiện thời tiết khắc nghiệt: Bão, lũ và thời tiết biển khắc nghiệt thường xuyên gây trở ngại cho việc xây dựng và duy trì hạ tầng. Quỹ đất tại các đảo còn nhỏ nên thiếu mặt bằng thuận lợi để phát triển các loại hình hạ tầng thương mại phù hợp.

Thiếu các công nghệ và kỹ thuật hiện đại để xây dựng và bảo trì hạ tầng trong điều kiện biển đảo. Thiếu hụt nguồn nhân lực có tay nghề cao và chuyên môn về xây dựng và quản lý hạ tầng trên các đảo.

Hệ thống giao thông kết nối giữa các đảo và đất liền còn yếu kém, làm hạn chế khả năng phát triển thương mại. Mặc dù đã được cải thiện, nhưng hạ tầng viễn thông tại nhiều huyện đảo vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển thương mại điện tử và các dịch vụ kỹ thuật số.

  1. Một số giải pháp phát triển hạ tầng thương mại tại khu vực đảo và hải đảo

Nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển mới của các tỉnh ven biển nói chung và các đảo và huyện đảo nói riêng, để phát huy vai trò của HTTM trong mở rộng thị trường cho các ngành sản phẩm có lợi thế, để phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng địa phương, đặc biệt là hỗ trợ các doanh nghiệp thương mại của các đảo và huyện đảo phát triển các hệ thống phân phối hàng hoá đáp ứng cho sản xuất và tiêu dùng, phục vụ du lịch, hướng tới phát triển thương mại quốc tế, đồng thời gắn với bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia, thực hiện được mục tiêu đề ra trong Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025, đòi hỏi phải có những giải pháp trên cơ sở phát huy các lợi thế phát triển, thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với các mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế- xã hội của các tỉnh có đảo và huyện đảo và của ngành thương mại, HTTM cả nước trong thời kỳ này.

4.1. Giải pháp chung

- Về chính sách đầu tư

Một trong những giải pháp chính để phát triển hạ tầng thương mại tại đảo là thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính phủ cần tạo môi trường đầu tư hấp dẫn thông qua các ưu đãi về thuế, chính sách miễn giảm chi phí đầu tư, và hỗ trợ về hạ tầng cơ bản. Việc hợp tác với các tập đoàn lớn để xây dựng hệ thống cửa hàng tiện lợi, siêu thị, trung tâm thương mại, và các dịch vụ logistics trên đảo sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế tại đây.

- Nâng cao chất lượng quy hoạch chung, quy hoạch hạ tầng thương mại nói riêng cả về công tác xây dựng đến triển khai thực thi. Đồng thời, Kiểm soát chặt chẽ nguồn lực quỹ đất, rà soát quy hoạch cụ thể, tính toán giao quỹ đất phù hợp trên nguyên tắc tiết kiệm, tránh lãng phí tài nguyên đất; đồng thời bảo đảm hiệu quả kinh tế. 

- Đẩy mạnh phát triển du lịch:

Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn tại các đảo như Phú Quốc, Côn Đảo, và Lý Sơn. Phát triển du lịch thương mại thông qua việc xây dựng các trung tâm mua sắm, khu vui chơi, và các cửa hàng bán sản phẩm đặc sản địa phương sẽ tạo nguồn thu lớn, đồng thời giải quyết vấn đề việc làm cho người dân địa phương. Các sản phẩm OCOP (Mỗi xã một sản phẩm) và các sản phẩm đặc trưng của vùng biển cần được thúc đẩy để trở thành thương hiệu quốc gia, từ đó gia tăng giá trị kinh tế cho khu vực.

- Mở rộng thị trường cho các sản phẩm đặc sản của đảo

Khu vực đảo và hải đảo cần áp dụng các mô hình kinh doanh mới phù hợp với đặc thù địa phương, chẳng hạn như phát triển hệ thống bán lẻ đa kênh kết hợp giữa bán hàng trực tiếp và thương mại điện tử. Việc này không chỉ tạo thuận lợi cho việc mua bán hàng hóa mà còn mở rộng thị trường cho các sản phẩm đặc sản của đảo.

- Phát triển hệ thống logistics và giao thông

Việc xây dựng và nâng cấp các cảng biển, sân bay và hạ tầng giao thông nội đảo là yếu tố then chốt giúp thúc đẩy thương mại tại các đảo. Các hệ thống kho bãi, trung tâm logistics cần được xây dựng để hỗ trợ cho việc lưu thông và phân phối hàng hóa.

- Đào tạo và nâng cao năng lực cho nguồn nhân lực

Để phát triển bền vững, cần chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực cho các hoạt động thương mại. Các chương trình đào tạo và hỗ trợ cho các doanh nghiệp địa phương, hộ kinh doanh nhỏ lẻ, và người lao động trên đảo cần được tổ chức thường xuyên để nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng quản lý.

- Khuyến khích phát triển thương mại bền vững

Hạ tầng thương mại tại các đảo cần được xây dựng theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường. Việc áp dụng các tiêu chuẩn "xanh" trong xây dựng và vận hành các khu thương mại sẽ giúp bảo vệ môi trường, giữ vững được nét đẹp thiên nhiên của các hòn đảo, đồng thời thu hút sự quan tâm của du khách.

- Khuyến khích ứng dụng khoa học công nghệ trong vận hành các loại hình hạ tầng thương mại và phát triển thương mại điện tử.

Phát triển hạ tầng thương mại tại khu vực đảo và hải đảo là một nhiệm vụ cấp thiết và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng của Việt Nam. Với tiềm năng sẵn có, cùng với các giải pháp quy hoạch, đầu tư và hợp tác hiệu quả, khu vực đảo và hải đảo sẽ trở thành những trung tâm thương mại, du lịch và giao thương quan trọng, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.

4.2. Giải pháp riêng

Nhóm các đảo lớn có cư dân sinh sống, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội, cũng như tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc hoặc các đảo ven bờ có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là cơ sở để bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta như huyện Vân Đồn hay Cát Bà, ... thì có những giải pháp riêng. Tại khu vực này định hướng phát triển nhiều loại hình hạ tầng thương mại lớn, hiện đại thậm chí có tính dẫn đầu, thử nghiệm như Trung tâm thương mại quy mô lớn, chợ đầu mối thủy sản cấp vùng, trung tâm logistics hàng không, ... do vậy, bên cạnh các giải pháp chung cho phát triển HTTM thì có giải pháp riêng về vốn: đối với khu vực này, bên cạnh vốn NSNN, có thể tập trung vào giải pháp huy động vốn đầu tư từ bên ngoài theo hình thức đối tác công tư (PPP), đẩy mạnh tuyên truyền và quảng bá thu hút các nhà đầu tư phù hợp. Đồng thời, có những chính sách đặc thù ưu tiên hơn so với các khu vực khác.

Bên cạnh đó, Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên các đảo này, tùy điều kiện cụ thể, có thể lập những căn cứ, trung tâm kiểm soát vùng trời, vùng biển, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, có thể kể đến các đảo Bạch Long Vỹ, đảo Cồn Cỏ, ... Do tính đặc thù từ vai trò tiền tiêu, cũng như thường là các đảo có diện tích nhỏ, ở xa bờ, dân cư còn thưa thớt, nên giải pháp phát triển HTTM trên khu vực những đảo này cũng cần một số giải pháp riêng. Đó là:

Quy hoạch và thu hút đầu tư phải đồng bộ: định hướng quy hoạch các vùng sinh thái, vùng phát triển kinh tế và vùng quân sự đảm bảo ổn định và cân bằng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo an ninh, quốc phòng, phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế biển.

Vốn phát triển HTTM ở khu vực các huyện đảo này chủ yếu là vốn ngân sách nhà nước. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước chủ yếu tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống, cấp vốn vay trong các chương trình giải quyết việc làm, hỗ trợ vốn cho các chương trình, dự án giảm nghèo; Ưu tiên sử dụng nguồn vốn này cho các công trình thuỷ lợi, giao thông, các công trình xã hội quan trọng khác. Sử dụng hiệu quả vốn và tận dụng chính sách hỗ trợ của Tỉnh và trung ương, các cơ chế chính sách tài chính đối với Khu kinh tế quốc phòng theo Quyết định số 83/2010/QĐ-TTg ngày 15/12/2010 của Thủ tướng chính phủ.

Các cấp, ngành cần tiếp tục quan tâm, có các chính sách ưu tiên cho việc đầu tư hạ tầng, các công trình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ quốc phòng, như cảng, bến kết nối các đảo; các tuyến đường giao thông kết nối nội đảo; các công trình chống biến đổi khí hậu, nước biển dâng, chống xâm thực; khu neo đậu tránh trú bão với cầu cảng vừa sử dụng cho tàu cá, vừa có thể sử dụng cho tàu khách.

Trong quá trình triển khai xây dựng các công trình cần có sự phối hợp với các cơ quan quân sự địa phương, các đơn vị quân đội trên địa bàn, đảm bảo vừa phục vụ mục đích kinh tế, vừa đảm bảo phục vụ an ninh quốc phòng.

Đặc thù đảo khá ít dân cư, do vậy, xây dựng và triển khai hiệu quả các chính sách thu hút người dân tới sinh sống tại các huyện đảo. Nghiên cứu thực hiện chính sách đặc thù như phụ cấp thu hút đối với công chức, viên chức ngành y tế, giáo dục; chế độ nhà công vụ cho cán bộ nơi khác ra đảo công tác; chính sách cho ngư dân bám biển…/.

 TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ban chấp hành TW Đảng (2018), Nghị quyết số 36-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 BCHTW khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ban hành ngày
  2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2022), Dự thảo lần 1 Quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  3. Bộ Công Thương (2014), Chuyên đề “Tổng hợp chiến lược, quy phát triển thương mại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo đến năm 2020”, Vụ Kế hoạch.
  4. Bộ Công Thương (2004), Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM về việc ban hành quy chế siêu thị, trung tâm thương mai, ban hành ngày 24/9/2004
  5. Chính phủ (2024), Nghị định số 60/2024/NĐ-CP về phát triển và quản lý chợ, ban hành ngày 5/6/2024.
  6. Chính phủ (2018), Nghị định số 09/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại và Luật Quản lý ngoại thương về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành ngày 19/01/2018
  7. Chính phủ (2024), Nghị định số 60/2024/NĐ-CP về phát triển và quản lý chợ, ban hành ngày 5/6/2024
  8. Nguyễn Việt Dũng, Đoàn Thị Thu Hương (2024), Phát triển bền vững huyện đảo Cô Tô dựa trên kinh tế biển xanh, Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội.
  9. Dương Duy Hưng (2021), Chuyên đề “Đánh giá việc thực hiện đột phá chiến lược về phát triển kết cấu hạ tầng giai đoạn 2011 – 2020 và vấn đề đặt ra trong giai đoạn 2021 – 2030, kế hoạch 5 năm 2021 – 2025 về phát triển kinh tế - xã hội”
  10. Trịnh Thị Thanh Thủy, Báo cáo tổng hợp Quy hoạch phát triển công nghiệp và thương mại tại các đảo và huyện đảo của Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.

 

[1] Bài báo là sản phẩm của đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát triển hạ tầng thương mại phục vụ mua bán hàng hóa khu vực đảo và hải đảo”