Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xanh
09:06 - 11/12/2024
Đặng Hà Anh
Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam
Chất lượng nguồn nhân lực được coi là yếu tố then chốt trong quá trình phát triển kinh tế xanh, đòi hỏi sự chuẩn bị toàn diện từ đào tạo, nâng cao kỹ năng đến thay đổi nhận thức. Việc đầu tư vào giáo dục, đào tạo và nâng cao kỹ năng cho người lao động sẽ giúp xây dựng một đội ngũ nhân lực mạnh mẽ, có khả năng giải quyết các thách thức môi trường và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Các biện pháp như đào tạo chuyên sâu, phát triển kỹ năng ứng dụng công nghệ, chính sách hỗ trợ và hợp tác quốc tế là những yếu tố then chốt để đạt được thành công trong lộ trình này. Trên cơ sở đánh giá tác động của việc phát triển kinh tế xanh đối với nguồn nhân lực, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời gian tới.
Từ khóa: Chất lượng nguồn nhân lực; Nguồn nhân lực; Kinh tế xanh.
1. Đặt vấn đề
Thuật ngữ “Kinh tế xanh là phát triển kinh tế đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó giảm thiểu ô nhiễm và tác động đến môi trường, tăng cường khả năng phục hồi trước biến đổi tự nhiên, đẩy mạnh vai trò của quản lý nhà nước về môi trường và nguồn lực tự nhiên trong việc ngăn ngừa các thảm họa từ thiên nhiên”. (Ngân hàng Thế giới, 2012).
Hiện nay, kinh tế xanh được hiểu là sự kết hợp giữa ba yếu tố: kinh tế, xã hội và môi trường. Trong đó, phát triển kinh tế xanh sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, giảm thiểu bất bình đẳng xã hội, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sản xuất và tiêu dùng, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững.
Kinh tế xanh hướng đến cuộc sống của người dân ngày càng nâng cao một cách toàn diện, những hoạt động sản xuất, kinh doanh trong xã hội luôn thân thiện với môi trường. Khi có sự cân bằng trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường sẽ tạo ra tính bền vững. Kinh tế xanh là một xu hướng tất yếu vì ngoài việc tạo ra việc làm, bảo đảm tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế xanh sẽ ngăn chặn ô nhiễm môi trường, nhiệt độ nóng lên trên toàn cầu và cạn kiệt nguồn tài nguyên.
Việt Nam đã có sự chuyển đổi trong mô hình phát triển, hướng tới nền kinh tế xanh, đây là một lựa chọn tất yếu, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới. Tuy nhiên, phát triển kinh tế xanh sẽ tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các quốc gia trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức rất lớn khi chuyển dịch sang nền kinh tế xanh là một số ngành nhất định sẽ bị mất việc làm nhưng cũng sẽ tạo thêm nhiều cơ hội việc làm mới, đặc biệt là các việc làm xanh, việc làm giúp nâng cao chuỗi giá trị sản xuất.
2. Cơ hội và thách thức
2.1 Cơ hội
- Tạo ra nhiều cơ hội việc làm trong các ngành có liên quan trực tiếp tới giảm phát thải khí nhà kính, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, tài nguyên.
- Những lao động đáp ứng yêu cầu về việc làm xanh trong quá trình phát triển kinh tế xanh sẽ có cơ hội tăng thu nhập, nâng cao mức sống.
- Nguồn nhân lực sẽ đáp ứng các yêu cầu đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất trong phát triển kinh tế xanh, từ đó tác động nâng cao chuỗi giá trị của ngành trong quá trình chuyển đổi.
- Người lao động phải luôn tự nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc, được đào tạo, bồi dưỡng thông qua các lớp và các khóa đào tạo nâng cao nhằm đáp ứng được trong quá trình phát triển kinh tế xanh.
- Nguồn nhân lực đáp ứng việc làm xanh cũng giúp đảm bảo cân bằng cung - cầu trên thị trường lao động về cả chất lượng và số lượng với xu hướng việc làm bền vững.
- Các việc làm xanh yêu cầu trình độ chuyên môn, kỹ năng cao hơn nhưng người lao động sẽ được trả mức lương cao hơn và việc làm xanh sẽ chuyển dần sang các nghề hiện nay còn nhiều lao động với trình độ, tay nghề thấp.
2.2 Thách thức
- Nhiều lao động bị mất việc làm trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế xanh do chưa đáp ứng được chuyên môn phục vụ cho quá trình sản xuất mới. Ngoài ra người lao động còn bị mất việc khi thu hẹp quy mô sản xuất, giảm về mặt số lượng và nâng cao về mặt chất lượng khi các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh theo hướng kinh tế xanh.
- Sự dịch chuyển của người lao động sang các lĩnh vực, các doanh nghiệp khác bởi xuất hiện nhiều cơ hội việc làm mới ở nhiều địa điểm khác nhau khi phát triển kinh tế xanh.
- Mặc dù phát triển kinh tế xanh hướng đến phát triển bền vững trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội, môi trường nhưng cần phải luôn có sự điều chỉnh những thay đổi để đảm bảo về mặt xã hội liên quan đến người lao động tại các địa phương có các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình kinh doanh theo hướng phát triển xanh.
- Chưa có các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể đáp ứng được trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể khi chuyển đổi sang kinh tế xanh. Còn thiếu chương trình đào tạo có mục tiêu đối với những lao động mất việc làm và những lao động chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
- Người lao động còn ít cơ hội tiếp cận được với các nguồn lực như dịch vụ công về y tế, giáo dục, điều này cũng ảnh hưởng đến tâm trí, thể chất của người lao động và làm giảm chất lượng nguồn nhân lực khi phát triển kinh tế xanh.
Như vậy, phát triển kinh tế xanh tạo ra nhiều cơ hội phát triển nguồn nhân lực, tuy nhiên lao động trong cá ngành truyền thống bị thu hẹp, giảm việc làm. Cần phải có các chính sách trong ngắn hạn về đạo tào lại và hỗ trợ mức lương đối với người lao động bị ảnh hưởng do giảm việc làm. Về dài hạn, cần đào tạo từ đầu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, phù hợp với yêu cầu trong các ngành chuyển đổi sang kinh tế xanh, đa dạng hóa chương trình đào tạo theo các lĩnh vực khác nhau.
Nguồn nhân lực là yếu tố cốt lõi để phát triển kinh tế xanh, cần phải có sự phối hợp giữa trường học, Viện nghiên cứu, các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng cho người lao động. Ngoài ra cần phải có sự hỗ trợ và thực hiện đồng bộ giữa Chính phủ, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo và các cơ quan, tổ chức liên quan khác.
Ngoài ra để nguồn nhân lực đáp ứng được quá trình phát triển kinh tế xanh cần phải thay đổi và đổi mới chương trình giáo dục đào tạo nghề, kỹ năng chuyên môn theo nhu cầu chuyển đổi xanh. Hỗ trợ đào tạo lại kỹ năng làm việc cho người lao động trong các doanh nghiệp chuyển đổi mô hình xanh. Hỗ trợ và giúp các doanh nghiệp nâng cao những kiến thức, nhận thức về hệ thống sinh thái, sự cần thiết phát triển kinh tế xanh và phát triển bền vững.
3. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của Việt Nam đang ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của dân số. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2022, quy mô dân số cả nước ước đạt 100 triệu người, trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người so với năm 2021. Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn người gia nhập lực lượng lao động. Riêng trong năm 2020 và 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước giảm 1,2 triệu người so với năm 2019, chủ yếu là do sự sụt giảm ở khu vực nông thôn (giảm hơn 1,1 triệu người). Trong số lực lượng lao động năm 2020, có 53,4 triệu người đang làm việc, trên 1 triệu người thất nghiệp; khoảng 17,3 triệu người (số liệu năm 2018 và 2019) không hoạt động kinh tế vì các lý do khác nhau.
Không chỉ gia tăng về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam cũng có những cải thiện rõ rệt. Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2020), trong 10 năm (năm 2010 đến năm 2020) chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam đã tăng từ 0,66 lên 0,69. Bước sang năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong nhóm phát triển khá đứng thứ 115/191 quốc gia. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực của Việt Nam có khả năng chuyển đổi, ứng dụng công nghệ số để xây dựng kỹ thuật số trong thời kỳ cách mạng 4.0. Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tiếp tục cao hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập, mặc dù mức chi tiêu công cho y tế, giáo dục và bảo trợ xã hội thấp hơn. Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Điều này phản ánh những thành tựu lớn trong giáo dục phổ thông và y tế trong những năm qua. Do đó, trong giai đoạn 2000- 2017, phát triển vốn nhân lực đóng góp khoảng 1/3 tăng trưởng GDP bình quân đầu người.
Nhìn chung, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam đã có sự cải thiện rõ rệt. Số lao động có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công việc được giao đang ngày càng tăng lên. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê (2020), tỷ trọng người lao động có trình độ sơ cấp chiếm 4,7%; trung cấp chiếm 4,3%; cao đẳng 3,7%; đại học trở lên 10,9%. Tỷ trọng này ở các trình độ cao đẳng và đại học ngày càng có xu hướng gia tăng, từ 8,7% trình độ đại học năm 2016 lên 10,9% năm 2020. Bước sang năm 2021, lao động đã qua đào tạo từ trình độ “Sơ cấp” trở lên là 26,1%, tăng 0,8 điểm phần trăm so với năm trước. Tất cả những yếu tố này đã góp phần nâng cao năng suất lao động của Việt Nam trong thời gian qua. Theo báo cáo chỉ số phát triển con người Việt Nam (2021), năng suất lao động của toàn nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành ước đạt 171,3 triệu đồng/lao động (tương đương 7.398 USD/lao động, tăng 538 USD so với năm 2020). Theo giá so sánh, năng suất lao động trong năm 2021 tăng 4,71% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2021 đạt 26,1%, cao hơn mức 25,3% của năm 2020).
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở Việt Nam còn khá lớn, chất lượng đào tạo thấp, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Hiện nay, nước ta đang thiếu công nhân có kỹ năng lao động cao, thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực, nhưng thừa lao động thủ công, không qua đào tạo. Trong khi đó, cạnh tranh quốc tế bằng lao động phổ thông, giá nhân công rẻ không mang lại hiệu quả cao. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng cao đang trở thành trở ngại lớn cho tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Theo đó, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức tương đối thấp và chênh lệch tuyệt đối tiếp tục xu hướng gia tăng. Năng suất lao động của Việt Nam chỉ cao hơn Campuchia; gần tương đồng với Myanmar và Lào; thấp hơn Ấn Độ, Philippines, Indonesia, Trung Quốc, Thái Lan và thấp hơn rất nhiều so với Malaysia cũng như Singapore. Bên cạnh đó, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào đóng góp của yếu tố vốn và lao động với mức đóng góp bình quân giai đoạn 2016- 2020 là 54,28%, trong đó đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này cao hơn đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP). Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một trong những thách thức rất lớn của Việt Nam trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư.
Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực thời gian qua tuy đã được tập trung đẩy mạnh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. “Để phát triển kinh tế - xã hội bền vững phải phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, có kỹ năng, đây cũng là một trong những đột phá chiến lược để phát triển đất nước trong thời gian tới”, ông Thanh nhấn mạnh. Việt Nam đã và đang tập trung để có nhiều giải pháp để đẩy mạnh nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực, trong đó hiện có 03 giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có chất lượng giáo dục đào tạo, trọng tâm là chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị, thay đổi phương thức giáo dục đào tạo, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Thứ hai, đảm bảo quy mô, cơ cấu ngành nghề đào tạo cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, hoàn thiện cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư, cả doanh nghiệp, người sử dụng lao động tích cực tham gia vào hoạt động đào tạo, phát triển kỹ năng nghề. Thứ tư, xây dựng các mô hình gắn kết với giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và thị trường lao động theo từng vùng, từng địa phương phù hợp với từng nhóm đối tượng, trong đó chú trọng đối tượng đặc thù.
Thứ ba, đẩy mạnh dự báo nhu cầu về đào tạo nghề nghiệp, đặc biệt là ngành nghề khoa học và kỹ thuật công nghệ, trong đó ưu tiên công nghệ thông tin, công nghệ mới, công nghệ cao. Thứ sáu, sắp xếp tổ chức mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hiện đại, dễ tiếp cận đa dạng về loại hình, hình thức tổ chức, phân bổ hợp lý cả về cơ cấu ngành, trình độ vùng, miền và đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về đào tạo nhân lực chất lượng cao.
4. Một số giải pháp
Một là, thực hiện có hiệu quả Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030 theo Quyết định số 176/QĐ-TTg, ngày 5/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đặt mục tiêu chỉ số lao động có kiến thức chuyên môn trong chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) thuộc nhóm 60 nước đứng đầu vào năm 2025 và 55 nước đứng đầu vào năm 2030; tỷ lệ lao động có các kỹ năng công nghệ thông tin đạt 90% vào năm 2030. Để thực hiện được điều này và cũng là giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam, cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục - đào tạo, xác định đúng đắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực tầm nhìn đến năm 2050.
Hai là, hoàn thiện hệ thống chính sách xây dựng, phát triển và quản lý nguồn nhân lực cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xanh trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay. Trong đó, cần tập trung vào các nội dung: (i) Xây dựng một nguồn nhân lực với cơ cấu và số lượng hợp lý qua từng giai đoạn phát triển của đất nước; (ii) Đào tạo và nâng cao kỹ năng số cho người lao động, bao gồm phân tích dữ liệu, sử dụng các phần mềm quản lý môi trường và công cụ số liên quan đến kinh tế xanh; (iii) Xây dựng, phát triển và phát huy có hiệu quả nguồn nhân lực tại chỗ để phát triển các nội dung kinh tế - xã hội ở mỗi địa phương, ngành và lĩnh vực..; (iv) Thu hút tiềm năng về nguồn nhân lực (đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao) ở ngoài nước tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước;
Ba là, tập trung các giải pháp về giáo dục và đào tạo để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, như: (i) Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ; triển khai các hoạt động đào tạo kiến thức, kỹ năng về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo trong các trường phổ thông; (ii) Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và các trường, trung tâm dạy nghề trên phạm vi cả nước. Trước mắt cần rà soát và tiến hành quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề trong cả nước, đặc biệt là hệ thống dạy nghề tại các địa phương vốn thu hút một lượng lớn lao động của cả nước; xây dựng và đầu tư nâng cấp để tạo ra hệ thống các trường dạy nghề chất lượng cao. Chú trọng nâng cao trình độ của giáo viên và trang thiết bị dạy nghề đáp ứng sự phát triển của khoa học công nghệ ngày càng phát triển của thế giới và phù hợp với yêu cầu thị trường lao động trong nước; (iii) Xây dựng chiến lược giáo dục và đào tạo phục vụ trực tiếp cho sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Cung cấp các chương trình đào tạo chất lượng cao từ cấp đại học đến sau đại học về các lĩnh vực liên quan đến khoa học môi trường, công nghệ năng lượng tái tạo, quản lý tài nguyên thiên nhiên và kinh tế xanh; (iv) Tổ chức các khóa đào tạo nghề cho lao động trong các ngành công nghiệp truyền thống để họ có thể chuyển đổi sang các ngành công nghiệp xanh.
Bốn là, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp và người lao động trong việc tự đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phát triển nguồn nhân lực theo hướng Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động học nghề thông qua định hướng thông tin, cơ chế, chính sách. Người lao động chủ động nắm bắt thông tin, tự đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, tiếp cận thị trường lao động, tìm kiếm việc làm. Về phía các doanh nghiệp, do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ, sẽ có những ngành nghề phải cập nhật lại kiến thức trong một thời gian ngắn, trong khi người lao động không thể quay trở lại trường để học, vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp cũng phải tự tổ chức các hoạt động giảng dạy, cập nhật kiến thức ngay tại đơn vị. Sự tham gia của doanh nghiệp với vai trò của người sử dụng lao động trong đào tạo không chỉ góp phần giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước về đầu tư cơ sở vật chất, mà còn giúp định hướng, đào tạo những lao động có kỹ năng phù hợp với nhu cầu thị trường, nhất là đáp ứng những yêu cầu về thay đổi trong sản xuất của công nghiệp 4.0.
Năm là, khuyến khích phát triển thị trường lao động. Đẩy nhanh tốc độ phát triển thị trường lao động, giới thiệu việc làm. Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển thị trường lao động từ khâu tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp, giới thiệu việc làm trong nước và xuất khẩu... tạo được sự liên kết chặt chẽ giữa kết quả phát triển nguồn nhân lực với sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Tài liệu tham khảo
- Ngân hàng Thế giới -WB (2020), Báo cáo công bố Chỉ số vốn nhân lực (Human Capital Index-HCI), truy cập từ https://www.worldbank.org/vi/ news/press-release/2020/09/16/pandemic-threatens-human-capital-gainsof-the-past-decade-new-report-says.
- Thủ tướng Chính phủ (2021), Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 5/02/2021 ban hành Chương trình hỗ trợ phát triển thị trường lao động.
- Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 phê duyệt Đề án “Nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
- Tổng cục Thống kê (2023), Niên giám Thống kê năm 2022, Nxb Thống kê.
- Đào Xuân Lộc (2024), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình phát triển kinh tế xanh, truy cập: https://dangcongsan.vn/phat-trien-kinh-te-xanh-ly-luan-va-thuc-tien/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-cho-qua-trinh-phat-trien-kinh-te-xanh-671701.html