Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp Việt Nam trong công nghiệp điện gió ngoài khơi
10:32 - 20/08/2025
CN. Nguyễn Văn Khánh; ThS. TrịnhThanh Hà
Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương
1. Khái quát về công nghiệp điện gió ngoài khơi (ĐGNK) và tiềm năng điện gió ngoài khơi Việt Nam
1.1 Khái quát về điện gió ngoài khơi
Sử dụng gió để lấy năng lượng là một ý tưởng khai thác tài nguyên gió ngày càng hiệu quả. Con người đã tận dụng sức mạnh đáng kinh ngạc của gió trong nhiều thế kỷ. Ngày nay, năng lượng gió đang tăng tốc phát triển, mang lại tỷ lệ phát điện năng tăng dần qua từng năm so với các nguồn năng lượng khác.
Về cơ bản, các tuabin gió, bất kể vị trí của chúng trên bờ (onshore) hay ngoài khơi (offshore), đều được lắp đặt nhanh chóng, đặc biệt khi so sánh với các nguồn năng lượng khác. Năng lượng gió đã chứng minh là một trong các nguồn năng lượng chính cung cấp cho con người. Khi năng lượng gió trở thành một nguồn năng lượng tái tạo ngày càng phổ biến, các nhà nghiên cứu dự đoán sẽ có những cải tiến đáng kể trong cả công nghệ điện gió trên bờ và ngoài khơi.
Các trang trại gió có thể lắp đặt trên bờ (trên đất liền hoặc gần bờ) hoặc ngoài khơi (xã bờ). Từ trước, các tuabin gió trên bờ chiếm lĩnh thị trường, cho đến khi tuabin gió đầu tiên được lắp đặt ngoài khơi bờ biển Đan Mạch vào năm 1991.
Năm 2020 là năm tăng trưởng cao nhất của ngành điện gió toàn cầu. Những con số có thể chứng minh như: Bất chấp đại dịch cũng như sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng toàn cầu, năm 2020 được coi là năm thành công khi 93GW điện gió được lắp đặt; trong đó có 86,9GW điện gió trên bờ và 6,1GW điện gió ngoài khơi.
Năng lượng gió trên bờ (onshore) là các tua-bin được đặt trên đất liền và sử dụng gió để tạo ra điện.
Năng lượng gió ngoài khơi (offshore) là khi gió trên mặt nước mở (thường là đại dương) được sử dụng để tạo ra điện.
* Đặc điểm của điện gió trên bờ (onshore)
Các trang trại gió trên bờ thường nằm ở những khu vực có giá trị bảo tồn hoặc môi trường sống thấp (chẳng hạn như ít dân cư).
Cơ sở hạ tầng cần thiết để truyền tải điện từ các tua-bin trên bờ ít hơn đáng kể so với ngoài khơi do có ít sự sụt giảm điện áp giữa tuabin gió và người tiêu dùng.
Tua bin gió trên bờ có thể triển khai rất nhanh. Do dễ lắp đặt, vận chuyển và các yếu tố khác ảnh hưởng đến chi phí vốn, các trang trại gió trên bờ ít tốn kém hơn các trang trại gió ngoài khơi.
Ít bị hao mòn (độ ẩm có sẵn trong khu vực lắp đặt tua-bin gió trên bờ có độ xói mòn rất thấp), chi phí bảo trì cũng thấp hơn so với các trang trại gió ngoài khơi.
Một số người cho rằng tuabin gió chiếm cảnh quan và cũng ồn ào.
Tốc độ gió trên bờ không thể dự đoán được như tốc độ gió ngoài khơi. Tương tự, hướng gió trên bờ thay đổi thường xuyên hơn. Vì các tuabin được tối ưu hóa ở một tốc độ cụ thể, điều này có thể hạn chế hiệu quả của chúng.
Sự khác biệt giữa điện gió trên bờ và ngoài khơi (Onshore vs Offshore)
* Đặc điểm của điện gió ngoài khơi (offshore)
Các trang trại gió ngoài khơi được xây dựng trong các vùng nước nơi có tốc độ gió cao hơn.
Tốc độ gió ngoài khơi có xu hướng nhanh hơn có nghĩa là nhiều năng lượng hơn có thể được tạo ra. Không có giới hạn vật lý như đồi hoặc tòa nhà có thể chặn luồng gió.
Tốc độ và hướng gió ngoài khơi cũng ổn định hơn và do đó cung cấp một nguồn năng lượng đáng tin cậy và hiệu quả hơn.
Tua bin gió ngoài khơi có thể được xây dựng lớn hơn và cao hơn nhiều so với các tua-bin trên bờ, cho phép thu thập nhiều năng lượng hơn.
Tuy nhiên, do các cấu trúc lớn hơn và hậu cần phức tạp của việc lắp đặt, các trang trại gió ngoài khơi rất tốn vốn và xây dựng tốn kém hơn đáng kể so với các trang trại gió trên bờ. Thông thường, các tua-bin ngoài khơi có giá cao hơn 20%, các tháp và móng có giá cao hơn 2,5 lần so với một dự án có kích thước tương tự trên bờ. Chi phí cho các cơ sở ngoài khơi, xây dựng, lắp đặt và kết nối mạng lưới cũng cao hơn đáng kể so với trên bờ.
Khi cơ sở được xây dựng, chi phí vận hành và bảo trì cũng cao hơn nhiều đối với các cơ sở ngoài khơi. Điều này là do : Bất chấp những nỗ lực nhằm giảm thiểu tác động của sự ăn mòn, nước biển gây ra các nhu cầu bảo trì bổ sung mà tuabin trên bờ không mắc phải. Tua bin gió ngoài khơi cũng chịu đựng nhiều hao mòn do sóng và tốc độ gió cao hơn so với tua bin trên bờ, bất kỳ bảo trì tuabin tại một cơ sở ngoài khơi là một công việc quan trọng liên quan đến một máy bay trực thăng đầy đủ các kỹ thuật viên được đào tạo chuyên nghiệp, và bất kỳ bảo trì lớn nào cũng cần phải thuê một giàn khoan tự nâng rất đắt tiền.
Bởi vì có xu hướng ở xa ngoài biển, nên các trang trại gió ngoài khơi có xu hướng ít ảnh hưởng (như tiếng ồn, che cảnh quan) đến con người.
Trang trại gió ngoài khơi không chiếm diện tích trên đất liền.
Gió ngoài khơi thậm chí có thể có lợi cho hệ sinh thái biển. Trên thực tế, các nghiên cứu chỉ ra rằng các trang trại gió ngoài khơi bảo vệ sinh vật biển bằng cách hạn chế tiếp cận các vùng nước nhất định và tăng môi trường sống nhân tạo.
1.2 Tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.
Việt Nam hiện đang sở hữu một lợi thế rất lớn để khai thác năng lượng ngoài khơi, trong đó có năng lượng gió với bờ biển dài và điều kiện tự nhiên thuận lợi với khoảng hơn 3.000 km bờ biển, trải dài từ Bắc vào Nam. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam ước tính khoảng 600.000 MW và nguồn năng lượng này có thể cung cấp tới 12% tổng sản lượng điện quốc gia vào năm 2035.
Điện gió ngoài khơi là một công nghệ đã được khẳng định và chi phí đầu tư giảm đáng kể ở châu Âu, nơi đã thực hiện các dự án điện gió ngoài khơi trên quy mô lớn. Đây là một nguồn năng lượng có chi phi xây dựng rẻ hơn so với các loại năng lượng khác như than, hạt nhân và khí đốt.
Điện gió ngoài khơi đã và đang được triển khai tại các thị trường gần Việt Nam hơn như là Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Điều này sẽ dẫn đến một chuỗi cung ứng hoàn thiện và giảm chi phí đầu tư cho các dự án trong khu vực châu Á, giúp cho Việt Nam có thể đạt được nhiều lợi ích từ đó.
Sự kết hợp giữa các yếu tố như tiềm năng gió tốt, vùng nước nông, các thành phố ven biển, bến cảng hiện có và lực lượng lao động lành nghề của Việt Nam là điều kiện lý tưởng cho việc phát triển điện gió ngoài khơi. Việt Nam nắm giữ vị trí độc nhất vô nhị để theo đuổi điện gió ngoài khơi như một nguồn năng lượng an toàn và là một phần quan trọng trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch.
Hiện tại, chưa có trang trại điện gió ngoài khơi thực sự nào được xây dựng ở Việt Nam. Việt Nam tập trung việc phát triển điện gió tại các khu vực trên bờ và gần bờ. Đây là những điển hình thường thấy ở một thị trường mới đang trong giai đoạn đầu áp dụng năng lượng gió tái tạo làm nguồn điện, vì các trang trại điện gió trên bờ và gần bờ có quy mô nhỏ, dễ đầu tư hơn và có thời gian phát triển ngắn hơn. Ví dụ, Đan Mạch và Trung Quốc đầu tiên bắt đầu phát triển điện gió gần bờ trước khi chuyển sang điện gió ngoài khơi.
Các trang trại điện gió gần bờ nằm trong khu vực thủy triều hoặc cách bờ biển vài km, nơi nước rất nông. Các dự án điện gió ở khu vực này có xu hướng sử dụng các tuabin nhỏ hơn (mỗi tuabin thường có công suất dưới 4MW), quy mô dự án nhỏ hơn (thường dưới 200 MW) và thường nằm gần lưới điện. Các dự án có thể có nền móng tùy chỉnh nhưng nhìn chung có thiết kế tương tự như các trang trại điện gió trên bờ. Do quy mô nhỏ hơn nên những dự án điện gió ở khu vực này có chi phí đầu tư thấp hơn và có thể huy động được vốn vay trong nước.
Các trang trại điện gió ngoài khơi nằm cách bờ biển hơn 5 km trong vùng nước sâu hơn 10m. Các dự án điện gió ngoài khơi sử dụng các tuabin rất lớn (tuabin công nghệ mới nhất có công suất lên tới 14MW) và quy mô lớn hơn (lên đến vài GW). Do công suất lớn và ở xa bờ nên dự án đỏi hỏi phải có các trạm biến áp và cáp ngầm chuyên dụng để vận chuyển điện lên lưới. Các tuabin gió, thiết kế móng, phương pháp lắp đặt và chuỗi cung ứng được thiết kế phù hợp với các điều kiện ngoài khơi. Chuỗi cung ứng điện gió xa bờ cũng khác với điện gió gần bờ. Do quy mô lớn, tương đương với một nhà máy điện khí LNG, chi phí đầu tư trang trại điện gió ngoài khơi cao hơn so với điện gió trên bờ và gần bờ, và cần có nguồn tài chính quốc tế.
Ở một số quốc gia, động lực chính để di chuyển các dự án điện gió ra xa bờ là tốc độ gió cao hơn, không gian sẵn có, quan ngại về môi trường và việc tránh xung đột với các cộng đồng ven biển và các chủ thể sử dụng biển.
Ở Việt Nam, gió ngoài khơi cũng mang lại những lợi ích tương tự. Các dự án điện gió ngoài khơi thực sự sẽ ở những khu vực có tốc độ gió cao hơn và ổn định hơn, hướng tới sản xuất năng lượng bền vững và hiệu quả hơn. ‘Đất’ xa bờ thuận tiện hơn ‘đất’ gần bờ vì không bị giới hạn bởi thủy triều và độ sâu của nước. Các trang trại gió ngoài khơi có khả năng ít tác động đến môi trường hơn, vì có ít đa dạng sinh học hơn ở các vùng nước sâu hơn. Các trang trại gió ngoài khơi cũng có ít tác động trực quan và tiếng ồn hơn, và sẽ ít ảnh hưởng tới những chủ thể sử dụng biển hiện tại, chẳng hạn như các chủ thể trong lĩnh vực quân sự, vận tải biển, đánh cá và du lịch.
Cho đến nay, sự phát triển của điện gió gần bờ ở Việt Nam đã được thúc đẩy thông qua các chính sách của Chính phủ, trong đó ban hành các biểu giá Feed-In-Tariffs (FIT – giá bán điện năng (tariff) sản xuất ra từ nguồn năng lượng tái tạo được cung cấp vào (feed-in) hoặc bán cho lưới điện) cụ thể cho các dự án “trên biển” (chủ yếu là các dự án điện gió gần bờ). Tại thời điểm này, chưa có định nghĩa chính thức hoặc chính sách cụ thể cho các dự án điện gió ngoài khơi thực sự ở Việt Nam.
Để khai thác tiềm năng to lớn của điện gió ngoài khơi ở Việt Nam, các doanh nghiệp cần đề xuất ý kiến lên Chính phủ đưa ra những cơ chế rõ ràng cho ngành này, trên cơ sở đó sẽ thúc đầy nhiều doanh nghiệp đầu tư vào việc phát triển điện gió ngoài khơi. Chính phủ có thể thực hiện bằng cách đặt ra các mục tiêu cụ thể cũng như chính sách dành riêng cho điện gió ngoài khơi.
2. Hiện trạng và khả năng nội địa hóa điện gió ngoài khơi tại Việt Nam.
2.1 Hiện trạng điện gió ngoài khơi và định hướng phát triển tại Việt Nam
Hiện nay, chưa có dự án điện gió ngoài khơi công suất lớn nào được chính thức vận hành tại Việt Nam. Theo thông tin từ báo cáo "The Time to Act is Now" của Hội Đồng Năng Lượng Gió Toàn Cầu (GWEC), mặc dù Việt Nam đã thực hiện lắp đặt khoảng 530 MW cho các dự án điện gió gần bờ vào năm 2021, nhưng con số này vẫn thấp hơn nhiều so với tiềm năng tài nguyên thực tế. Hiện tại hàng loạt gigawatt (GW) từ các dự án điện gió ngoài khơi đang được nghiên cứu, tuy nhiên, tiến độ còn chậm do thiếu khung pháp lý.
Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 15/4/2025, đến năm 2035 đã quy hoạch 16 dự án điện gió ngoài khơi với tổng công suất lắp đặt là 17.000 MW.
Định hướng phát triển điện gió ngoài khơi theo Quyết định số 768/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch điện VIII điều chỉnh ngày 15/4/2025 như sau:
Phát huy tối đa tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi của nước ta (khoảng 600.000 MW) để sản xuất điện và năng lượng mới:
Tổng công suất điện gió ngoài khơi phục vụ nhu cầu điện trong nước đạt khoảng 6.000 - 17.032 MW, dự kiến vận hành giai đoạn 2030 - 2035. Định hướng đến năm 2050 đạt 113.503 - 139.097 MW.
Định hướng phát triển mạnh điện gió ngoài khơi kết hợp với các loại hình năng lượng tái tạo khác (điện mặt trời, điện gió trên bờ, gần bờ v.v...) để sản xuất năng lượng mới (hydrogen, amoniac xanh v.v...) phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Ước tính công suất nguồn điện gió ngoài khơi để sản xuất năng lượng mới vào khoảng 15.000 MW vào năm 2035 và khoảng 240.000 MW vào năm 2050.
Hiện nay có 2 dư án được cấp phép đo gió: TLW Bình thuận (2.700 km2) đo gió và khảo sát tổng hợp, và Bến Tre (chỉ đo gió với 36 km2). Còn 41 dự án đã có đơn xin cấp phép khảo sát năng lượng gió ngoài khơi.
Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn với công suất 3.5 GW tại tỉnh Bình Thuận đang hướng tới việc xây dựng một trong những dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn đầu tiên và sẽ góp phần phát triển nền năng lượng gió ở Việt Nam. Dự án tiên phong này đang được phát triển bởi Copenhagen Infrastructure Partners (CIP), Asiapetro và Novasia, và được quản lý bởi các chuyên gia hàng đầu về điện gió ngoài khơi Copenhagen Offshore Partners (COP).
Với công suất 3,5GW, dự án có công suất tương đương với một nhà máy điện than hoặc khí đốt lớn và dự kiến sẽ cung cấp năng lượng cho hơn 7 triệu hộ gia đình. Dự án La Gàn cũng góp phần giảm thiểu 130 triệu tấn khí thải CO2 trong suốt vòng đời dự án. Dự án có quy mô vốn đầu tư khoảng 10.5 tỷ USD và sẽ sử dụng những công nghệ điện gió tiên tiến nhất.
2.2 Các khó khăn, vướng mắc phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam
2.2.1 Các văn bản pháp luật
- Các quy định cụ thể cho điện gió ngoài khơi chỉ mới được đề cập trong Luật điện lực năm 2024 và Quy hoạch điện VIII điều chỉnh 15/4/2025. Do mới có hiệu lực nên chưa có đủ các văn bản hướng dẫn cụ thể của cơ quan chức năng. Các luật khác có liên quan chưa đề cập cụ thể về điện gió ngoài khơi.
- Trong các quy định liên quan đến Biển: Luật Biển Việt Nam 2012: Tại Điều 45. Xây dựng và phát triển kinh tế biển có khoản 2 về việc giao một số khu vực biển cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển được thực hiện theo đúng quy định của Chính phủ. Trong điều này chưa có quy định cụ thể về việc cho ngành năng lượng tái tạo nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng thuê mặt nước biển.
- Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo năm 2015 có Điều 19 quy định về trình tự, nội dung cấp phép nghiên cứu khoa học trên vùng biển Việt Nam đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, Điều 19 không quy định về khảo sát, nghiên cứu, xây dựng các dự án phát triển kinh tế biển nói chung (vốn tư nhân) và điện gió ngoài khơi nói riêng mà chỉ quy định về khảo sát, nghiên cứu cơ bản vốn ngân sách.
- Trong các quy định liên quan đến giấy phép môi trường: Luật Bảo vệ Môi trường 2020 có quy định về Đánh giá tác động môi trường (EIA) đối với các dự án Năng lượng tái tạo tại Điều 28, Giấy phép môi trường tại Điều 39, Giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, tổ chức và phát triển thị trường các-bon và các biện pháp thúc đẩy hoạt động về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong Điều 91. Tuy nhiên, Luật chưa quy định rõ các dự án năng lượng tái tạo đặc thù thuộc dự án danh mục xanh có mục tiêu giảm khí thải nhà kính, Net zero cacbon thì có thể giảm thiểu một số nội dung đánh giá tác động môi trường, đặc biệt các DTM dự án điện gió ngoài khơi.
2.2.2 Với các bộ, ngành
- Chưa có quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tự bỏ kinh phí điều tra khảo sát và việc giao nộp dữ liệu khảo sát.
- Các dự án điện gió ngoài khơi được đưa vào Quy hoạch điện VIII cơ bản chỉ có tổng công suất, phần lớn chưa có vị trí cụ thể và không có tên chủ đầu tư.
- Chưa có quy định về lựa chọn nhà đầu tư sẽ được thực hiện theo các quy định của Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư và các quy định pháp luật khác có liên quan.
- Chưa rõ cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép, hay chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi.
- Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt, nên chưa có cơ sở triển khai thực hiện Quy hoạch điện lực.
- Chưa xác định các khu vực khảo sát chồng lấn với khu vực dành cho các hoạt động quốc phòng. Ngoài ra, cần lưu ý đến các vấn đề về an toàn hàng hải, quản lý người, phương tiện nước ngoài trong vùng biển nước CHXHCN Việt Nam. Chưa có tiêu chuẩn quốc gia về hệ thống giám sát an ninh quốc phòng trên biển riêng biệt, độc lập với giám sát của dự án.
- Chưa có quy định cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài được phép thực hiện hoạt động đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên vùng biển Việt Nam. Đồng thời, chưa quy định rõ yêu cầu hồ sơ, trình tự, thủ tục ban hành văn bản chấp thuận và quy định về việc quản lý hoạt động khảo sát gió, địa chất, địa hình.
- Chưa có yêu cầu cụ thể đối với phương tiện, thiết bị nước ngoài nhập, xuất để lắp đặt cho dự án điện gió ngoài khơi.
- Chưa xác định rõ khu vực biển đề xuất khảo sát (chồng lấn với luồng hàng hải quốc gia, quốc tế).
- Chưa có quy định khoảng cách an toàn sinh thái từ khu vực có dự án điện gió ngoài khơi tới các khu bảo tồn biển, khu dự trữ sinh thái, di sản thiên nhiên, văn hoá.
- Chưa có quy định về dự án xuất khẩu và khu vực biển dành cho xuất khẩu điện gió ngoài khơi.
- Chưa có quy định về khu vực sản xuất hydro xanh từ nguồn điện gió ngoài khơi.
2.2.3 Vướng mắc về kỹ thuật
- Chưa có quy định về diện tích khu vực biển chấp thuận cho sử dụng để đo gió, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển là bao nhiêu ha trên 1 MW công suất dự kiến đối với từng khu vực biển (mỗi vùng biển sẽ có quy định khác nhau khi tốc độ gió, mật độ gió, công suất tua bin, điều kiện địa chất, địa hình biển khác nhau).
- Chưa có quy định công suất điện gió tối đa cho 01 dự án là bao nhiêu, chẳng hạn 0,5 GW, 1 GW, hay 2 GW… để vừa đảm bảo khuyến khích nhà đầu tư tham gia dự án, vừa đảm bảo cân đối hệ thống truyền tải điện.
- Chưa có quy định công suất dự kiến để khảo sát là bao nhiêu GW trong từng thời kỳ quy hoạch cho phù hợp với tổng công suất điện gió ngoài khơi lũy kế đến năm 2030 được xác định khi Quy hoạch điện VIII được phê duyệt. Chưa có tiêu chí lựa chọn nhà phát triển dự án có kinh nghiệm, năng lực và có cam kết rõ ràng về tiến độ, chất lượng khảo sát điện gió ngoài khơi. Chưa có quy hoạch diện tích các vùng biển có tiềm năng và khả năng phát triển điện gió, vùng dành cho xuất khẩu điện gió, vùng dành cho sản xuất riêng lẻ và kết hợp sản xuất green hydrogen.
3. Một số giải pháp
- Hoàn thiện các chính sách ưu đãi về thuế:
Thuế nhập khẩu: Các dự án được miễn thuế nhập khẩu áp dụng cho các vật liệu, thiết bị và phương tiện nhập khẩu hình thành tài sản cố định của dự án điện gió ngoài khơi và các thành phần của điện gió ngoài khơi.
Thuế thu nhập doanh nghiệp: Các dự án điện gió ngoài khơi và các thành phần của điện gió ngoài khơi được ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (CIT) bao gồm thuế suất CIT ưu đãi 10% (chứ không phải thuế suất CIT thông thường 20%) trong 15 năm, miễn CIT trong bốn năm đầu và giảm 50% cho chín năm tiếp theo.
- Ưu đãi về đầu tư:
Cần quy hoạch vị trí phát triển điện gió ngoài khơi cho các dự án cụ thể; hoàn thiện các thủ tục pháp lý để thu hút đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để Việt Nam tiếp cận được các công nghệ tiên tiến và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã thành công trong lĩnh điện gió ngoài khơi.
Cần xây dựng chính sách hỗ trợ tín dụng xanh, chính sách carbon với các dự án điện gió ngoài khơi và các thành phần của điện gió ngoài khơi.
- Chính sách đất đai, mặt nước
Miễn hoặc giảm thuế đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước cho các dự án điện gió ngoài khơi và công nghiệp hỗ trợ cho điện gió ngoài khơi.
- Chính sách KHCN và đào tạo nguồn nhân lực
Các đề tài, dự án nghiên cứu làm chủ công nghệ, nhập khẩu công nghệ để chế tạo tuabin, cánh quạt, hệ thống điều khiển, trạm biến áp ngoài biển, … được hưởng các ưu đãi và cơ chế đặc thù như đề tài KHCN theo Luật KH&CN.
Đặc biệt, chú trọng đến việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp mới này. Chính phủ có thể giao nhiệm vụ đào tạo cho các trường đại học bách khoa, đại học quốc gia, … mở các chuyên ngành đào tạo về điện gió ngoài khơi; Cử chuyên gia, sinh viên đi đào tạo ở nước ngoài theo các chuyên ngành của điện gió ngoài khơi.
3.2.2.4 Chính sách giá mua bán điện, đấu nối
- Đối với các dự án thí điểm ưu tiên cho thực hiện Giá thí điểm (có bù lỗ cho DN) sau đó thực hiện giá FiT, tiến tới giá Đấu thầu cạnh tranh. Đây là chính sách có sức hút lớn nhất để doanh nghiệp có quyết định đầu tư hay không.
- Nhà nước đầu tư hạ tầng trên bờ để đấu nối với các dự án ĐGNK
Tài liệu tham khảo
- Hoàn thiện chính sách phát triển điện gió ở Việt Nam- ThS. Lê Hoàng Oanh- Học viện Hành chính Quốc gia 14/11/2024.
- Điện gió ngoài khơi Việt Nam (tháng 6/2024): Các thách thức và giải pháp chính sách.
- Báo cáo chuyên ngành dịch vụ kỹ thuật của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (cập nhật tháng 7/2024).-Ban biên tập Tạp chí Năng lượng Việt Nam.
- TS. PHẠM THANH ĐẢM - THS. PHẠM QUỐC SỸ - Hiện trạng điện gió ngoài khơi và định hướng phát triển tại Việt Nam.
- Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
- Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
- GWEC, 2022, Global Offshore Wind Report 2022.