Một số giải pháp hoàn thiện chính sách xúc tiến thương mại trong bối cảnh mới
10:35 - 06/01/2025
Vũ Bá Phú
Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại – Bộ Công Thương
Chính sách xúc tiến thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc tạo những cơ sở cho phát triển hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ phát triển sản xuất, mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động hiên nay. Tuy nhiên, chính sách đối với lĩnh vực này vẫn bộc lộ một số bất cập nhất định, đặc biệt là vấn đề hiệu quả chính sách trong thực tiễn hoạt động xúc tiến thương mại. Trên cơ sở đó, bài viết tập trung đánh giá một số hạn chế và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách xúc tiến thương mại trong bối cảnh mới.
Từ khóa: Hoàn thiện chính sách; Thương mại; Xúc tiến thương mại.
1. Mở đầu
Trong những năm vừa qua, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động xúc tiến thương mại về cơ bản đã bảo đảm được công tác quản lý nhà nước, tạo môi trường pháp lý ổn định, phù hợp và tạo thuận lợi cho các tổ chức xúc tiến thương mại (XTTM), hiệp hội ngành hàng thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại; qua đó hoạt động XTTM đã phát triển và góp phần đáng kể cho tăng trưởng xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu. Thông qua việc triển khai cơ chế chính sách XTTM trong thực tiễn đã khẳng định vai trò hỗ trợ của Chính phủ cho hoạt động xuất khẩu, nâng cao năng lực cho các tổ chức XTTM, các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, hợp tác xã một cách có hiệu quả góp phần tích cực xây dựng và quảng bá cho hàng hóa có chất lượng ở thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng cơ chế, chính sách XTTM trong triển khai công tác XTTM trong thời gian qua đã phát sinh những tồn tại.
- Mô hình tổ chức
Bất cập về mô hình tổ chức của hệ thống XTTM tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhiều địa phương chưa thống nhất mô hình tổ chức của các trung tâm, gây tâm lý bất ổn của các cán bộ làm công tác XTTM, điều này cũng hạn chế trong công tác chỉ đạo, phối hợp từ trung ương đến địa phương, không bảo đảm sự tập trung thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành làm giảm hiệu quẩ trong tổ chức các hoạt động XTTM.
- Năng lực XTTM
Chính sách về nâng cao năng lực XTTM của các tổ chức XTTM địa phương, hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp vẫn chưa đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của các phương thức XTTM trong tình hình mới. Sự hạn chế về nguồn lực (nhân lực, tài chính), vấn đề thiếu kinh phí so với mức đầu tư cần thiết để đảm bảo khả năng cạnh tranh trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu; thiếu cơ sở hạ tầng để tổ chức các hoạt động XTTM quy mô lớn để tổ chức các sự kiện XTTM cấp vùng, quốc gia, quốc tế.
- Thông tin và phân tích, dự báo
Việc cung cấp thông tin thị trường và năng lực phân tích, dự báo, nắm bắt xu hướng thị trường còn hạn chế, thông tin thị trường đến các doanh nghiệp, còn yếu và thiếu, mạng lưới quan hệ, đối tác (đặc biệt là đối tác quốc tế) còn rất hạn chế..
Hoạt động XTTM hiện khá tản mát, thiếu tập trung, thiếu kết nối liên ngành và chưa mang tính dài hạn. Hình thức, phương thức XTTM chưa đa dạng, phong phú, chưa có các hình thức XTTM hiện đại và đổi mới. Quy mô các hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng xuất khẩu của các ngành hàng chủ lực của Việt Nam.
Ngoài ta, chính sách về phát triển thương hiệu quốc gia vẫn chưa xây dựng được thương hiệu quốc tế đối với sản phẩm, hàng hóa Việt Nam.
- Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên phải kể đến là:
+ Chưa có cơ chế điều hành tạo sự gắn kết giữa các hoạt động trong khung khổ Chương trình cấp quốc gia về XTTM với các hoạt động XTTM khác như XTTM gắn với xây dựng quản trị và phát triển thương hiệu, quảng bá thương hiệu quốc gia, quảng bá chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể.
+ Kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ thực hiện XTTM, phát triển ngoại thương tuy có sự gia tăng so với giai đoạn trước nhưng còn rất hạn chế so với nhu cầu cần hỗ trợ qua các hoạt động XTTM của địa phương, hiệp hội ngành hàng, hiện mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% so với nhu cầu.
+ Một số văn bản về cơ chế, chính sách tài chính áp dụng cho hoạt động XTTM đã lạc hậu, không còn phù hợp nhưng chưa được điều chỉnh, thay thế, như về Thông tư số 171/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính hỗ trợ từ ngân sách nhà nước để thực hiện Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia được xây dựng từ năm 2014, do vậy quy định các hạng mục nội dung hỗ trợ đối với nhiều hoạt động còn chưa sát với yêu cầu thực tế; tỷ lệ hỗ trợ, mức hỗ trợ kinh phí đối với một số nội dung xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu chưa phù hợp, gây khó khăn cho các đơn vị chủ trì triển khai đề án.
+ Cơ chế chính sách về XTTM chưa khuyến khích các hiệp hội ngành hàng, tổ chức XTTM đầu tư, nghiên cứu thay đổi cách thức triển khai hoạt động XTTM nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng phục vụ doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh xuất khẩu.
+ Cơ chế, chính sách XTTM chưa theo kịp với sự phát triển mạnh mẽ và trở thành xu hướng ưu tiên của thương mại điện tử, thương mại quốc tế công nghệ số hay sự dịch chuyển, tái cấu trúc các chuỗi cung ứng theo hướng tin cậy, an toàn và bền vững; việc ưu tiên của các quốc gia trong hợp tác kinh tế, thương mại song phương, khu vực và theo nhóm.
2. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại đến năm 2025, tầm nhìn đến 2030
2.1 Nhóm giải pháp thứ nhất: hoàn thiện về chính sách, cơ chế cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại
Một là, hoàn thiện cơ chế chính sách, xúc tiến thương mại phù hợp với Chiến lược xuất nhập khẩu và Chiến lược phát triển thị trường trong nước trong từng thời kỳ.
Hai là, hoàn thiện cơ chế chính sách về XTTM trên cơ sở đánh giá thực tiễn, khả thi, phù hợp với xu thế thực tiễn xu thế thương mại trong nước và thế giới; Tăng cường tham vấn khu vực công – tư khi soạn thảo các văn bản pháp lý về xúc tiến thương mại.
Ba là, ưu tiên triển khai xúc tiến thương mại xanh và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong xúc tiến thương mại; xây dựng kế hoạch cụ thể về đầu tư nguồn lực cho các nhóm giải pháp xúc tiến thương mại theo trình độ doanh nghiệp, nhóm hình thức xúc tiến thương mại...
Bốn là, có cơ chế, chính sách về nguồn lực tài chính dự phòng để triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại phát sinh do biến động của thị trường và các tình huống bất ngờ làm thay đổi tập quán thương mại.
2.2 Nhóm giải pháp thứ 2: xúc tiến thương mại phát triển thị trường xuất khẩu
Một là, xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại theo các nhóm đối tượng doanh nghiệp khác nhau phù hợp với năng lực doanh nghiệp và mục tiêu xuất khẩu. Xây dựng Chương trình xúc tiến thương mại theo chuỗi hoàn thiện như các mô hình chương trình phát triển xuất khẩu cho nhóm doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu
Hai là, xây dựng Chương trình xúc tiến xuất khẩu theo nhóm các khu vực thị trường hoặc các thị trường mục tiêu phù hợp với thực tiễn, tiềm năng các ngành hàng xuất khẩu và cơ hội thị trường, năng lực canh tranh của doanh nghiệp
Ba là, xúc tiến thương mại hướng đến duy trì và phát triển thị trường cho các nhóm hàng có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn, phát triển các mặt hàng có tiềm năng, có tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng cao, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng và phát triển thương hiệu hàng Việt Nam
Bốn là, chú trọng hoạt động nghiên cứu diễn biến tình hình thị trường thế giới và phân tích, đánh giá tác động tới xuất khẩu của Việt Nam, cập nhật các thay đổi về chính sách thương mại, quy định nhập khẩu, các rào cản phi thuế quan, tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh an toàn, kiểm dịch động thực vật, tiêu chuẩn xã hội và môi trường, các biện pháp phòng vệ thương mại, bảo hộ mậu dịch, cảnh báo về nguy cơ bị kiểm tra, kiểm nghiệm và bị từ chối nhập khẩu…
2.3 Nhóm giải pháp thứ 3: xúc tiến thương mại thúc đẩy nhập khẩu hiệu quả
Một là, xây dựng chương trình xúc tiến nhập khẩu thông qua các hội chợ triển lãm ngược, hội nghị quốc tế, kết nối giao thương tại Việt Nam hoặc các hoạt động khảo sát thị trường tìm nguồn nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ cao, vật tư, nguyên nhiên vật liệu cơ bản trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng đủ nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.
Hai là, xúc tiến nhập khẩu phối hợp với cơ quan quản lý kiểm soát chất lượng hàng nhập khẩu đảm bảo hoạt động nhập khẩu theo mục tiêu, định hướng, không nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, nguyên vật liệu trong nước đã có nguồn cung.
2.4 Nhóm giải pháp thứ 4: phát triển thị trường trong nước
Một là, xúc tiến thương mại thúc đẩy chuyển biến về nhận thức, thái độ, thị hiếu tiêu dùng của các tầng lớp nhân dân đối với hàng Việt. Xây dựng hệ thống thông tin, truyền thông giúp cho người tiêu dùng hiểu rõ hơn về chất lượng sản phẩm sản xuất trong nước về các kênh phân phối uy tín để củng cố lòng tin của khách hàng vào khả năng sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, chất lượng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ Việt Nam.
Hai là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, về người tiêu dùng, xu hướng tiêu dùng, xu hướng thương mại... tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt thông tin làm cơ sở xây dựng chiến lược kinh doanh và phát triển thị trường phù hợp với xu hướng phát triển của môi trường kinh doanh, đa dạng hóa các hình thức phân phối, xây dựng thương hiệu
Ba là, xây dựng chương trình xúc tiến thương mại phát triển thị trường trong nước kết hợp triển khai Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” với những hoạt động chính như truyền thông, quảng bá hàng hóa thương hiệu Việt; phát triển hệ thống phân phối; nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp…
Bốn là, xây dựng các chương trình đào tạo, tập huấn XTTM cho các hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp, như hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu thị trường, xu hướng mua sắm…hỗ trợ kỹ năng, năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với phương thức quản trị bán hàng tiên tiến.
2.5 Nhóm giải pháp thứ 5: cơ chế, chính sách triển khai đa dạng và nâng cao chất lượng triển khai các phương thức xúc tiến thương mại
Một là, tiếp tục triển khai đa dạng các hình thức xúc tiến thương mại trực tiếp như hội chợ triển lãm, các đoàn trao đổi thương mại, cung cấp thông tin thị trường, quảng bá thương hiệu tuy nhiên cần thực hiện theo kế hoạch mang tính kế thừa và phát triển, đầu tư khâu chuẩn bị về mẫu mã sản phẩm, kế hoạch truyền thông, đào tạo kỹ năng xúc tiến thương mại, phát triển đội ngũ có kỹ năng nghiên cứu sâu về thông tin thị trường, tư vấn phát triển xuất khẩu.
Hai là, đẩy mạnh phương thức xúc tiến thương mại trên nền tảng số, trên cơ sở hoàn thiện và phát triển các công cụ, nền tảng số, xây dựng cơ sở dữ liệu về khách hàng, nhà cung ứng, phối hợp với ngành logicstics tạo cơ chế thuận lợi thúc đẩy thực hiện giao dịch xúc tiến thương mại trên nền tảng số thuận lợi.
2.6 Nhóm giải pháp thứ 6: cơ chế, chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng xúc tiến thương mại
Một là, xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng xúc tiến thương mại căn cứ trên quy hoạch về trung tâm hội chợ triển lãm, trung tâm logistics cấp vùng, cấp quốc gia.
Hai là, xây dựng chính sách, cơ chế khuyến khích đầu tư hạ tầng xúc tiến thương mại, thúc đẩy hợp tác công tư trong đầu tư hạ tầng hội chợ triển lãm, hội nghị, hội thảo. Nâng cấp và xây dựng trung tâm xúc tiến thương mại có quy mô phù hợp với công năng, hạ tầng và sự liên kết về giao thông thuận lợi, phù hợp cho các sự kiện xúc tiến thương mại quy mô quốc tế, quốc gia, khu vực./.
Solutions to improve trade promotion policy in the new context
Vu Ba Phu
Trade promotion policy plays an important role in creating the foundations for developing trade promotion activities, supporting production development, expanding markets, boosting exports, especially in the context of the current volatile world economy. However, the related policies still reveal certain shortcomings, especially the issue of policy effectiveness in practical trade promotion activities. On that basis, the article focuses on assessing some limitations and proposing solutions to improve trade promotion policies in the new context.
Keywords: Policy improvement; Trade; Trade promotion.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Thương mại năm 2005;
- Nghị định số 81/2018/NĐ-CP, ngày 22/5/2018, của Chính phủ, “Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động xúc tiến thương mại”;
- Quyết định số 2124/QĐ-BCT, ngày 10/8/2020, của Bộ Công Thương, “Kế hoạch hoạt động xúc tiến thương mại giai đoạn 2020 - 2025 góp phần phát triển xuất khẩu bền vững trong bối cảnh thực thi EVFTA, CPTPP và các hiệp định thương mại tự do”;
- Quyết định số 1163/QĐ-TTg, ngày 13/7/2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045”;
- Quyết định số 493/QĐ-TTg, ngày 19/4/2022, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030”;
- Trương Thị Quỳnh Vân: “Chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại năm 2023”, Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công thương, ngày 18-2-2023, https://vioit.org.vn/vn/tin-hoat-dong-nganh/chuong-trinh-cap-quoc-gia-ve-xuc-tien-thuong-mai-nam-2023-5082.4056.html