Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế
11:31 - 21/11/2024
Hà Ngọc Thanh; Giáp Thị Minh Huyền
Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương
Thị trường phân phối của Việt Nam đã có nhiều thay đổi cả về chất và lượng sau khi Việt Nam mở cửa thị trường kể từ ngày 01/01/2009 khi hết thời hạn hạn chế các mặt hàng có lộ trình khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và thực hiện nhiều cam kết quốc tế đã được ký kết. Nhận thấy tiềm năng phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam, nhiều tập đoàn bán lẻ quốc tế đã tham gia thị trường, đặc biệt các hệ thống phân phối nước ngoài đã phát triển và mở rộng một cách nhanh chóng thông qua đầu tư mới và các hoạt động mua bán, sáp nhập, cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp phân phối trong nước. Trên thực tế đã xảy ra thực trạng kênh bán lẻ truyền thống bị thu hẹp về quy mô lẫn tỷ trọng trong tổng doanh thu bán lẻ. Trước bối cảnh đó, ngày 20/8/2019 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Triển khai Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 27/4/2020, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động tại Nghị quyết số 58/NQ-CP, trong đó có nhiệm vụ giao Bộ Công Thương xây dựng “Cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế”. Bởi vậy, bài viết sẽ phân tích thực trạng các cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế giai đoạn đến năm 2030.
Từ khóa: cơ chế, chính sách, quản lý, phát triển, thị trường trong nước, giải pháp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước
Từ khi Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam, nhiều cam kết trong lĩnh vực phân phối ở Nghị định thư này đã được nội luật hóa. Tuy nhiên, trong quá trình đám phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, trước yêu cầu của các đối tác cũng như thực tế hoạt động phân phối hàng hóa và lập cơ sở bán lẻ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, một số cam kết trong lĩnh vực phân phối ở Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO của Việt Nam đã được nội luật hóa theo hướng nới lỏng và minh bạch hơn. Trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối, bán lẻ, đặc biệt tại những kênh bán lẻ hiện đại dẫn tới cần hoàn thiện các chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phân phối trong nước phát triển, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nhưng vẫn đảm bảo phù hợp với các cam kết quốc tế đã ký kết, tham gia.
1. Đánh gia thực trạng xây dựng cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển
1.1. Kết quả đạt được
Cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam thời gian qua đã đạt được các kết quả sau:
Thứ nhất, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước đang dần được hoàn thiện
Việt Nam đã ban hành nhiều luật, bộ luật và văn bản dưới luật liên quan đến cơ chế quản lý, chính sách phát triển thương mại trong nước, phát triển thị trường phân phối như: Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại 2005, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp. Luật Đầu tư, Pháp lệnh Quản lý thị trường, Luật Cạnh tranh, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa…
Thứ hai, cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước ngày càng phù hợp với thực tiễn hội nhập
Cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước đã từng bước được củng cố, kiện toàn, phù hợp với thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế. Chính sách được xây dựng khá đồng bộ, tương đối đầy đủ, bao quát hết các vấn đề của thị trường phân phối trong nước, có những cơ chế hỗ trợ, có chính sách phát triển doanh nghiệp trong nước và chính sách quản lý hoạt động phân phối của nhà đầu tư, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các chính sách này đã tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, điều tiết theo quy luật thị trường có sự quản lý, định hướng của nhà nước, khuyến khích, tạo thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh, phát triển thị trường phân phối. Công tác bình ổn giá, điều hành thị trường đã và đang được đổi mới phù hợp, góp phần thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát. Công tác bảo đảm trật tự thị trường và vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng cháy chữa cháy và vệ sinh môi trường… trong hoạt động phân phối được đảm bảo, chất lượng hàng hóa được nâng lên, đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao của người dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước đi vào thực tiễn và mang lại hiệu quả kinh tế
Các văn bản chính sách, pháp luật về quản lý và phát triển thị trường trong nước, thị trường phân phối được thực thi có hiệu quả, đi vào thực tiễn, góp phần tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Các doanh nghiệp tuân thủ các quy định của chính sách pháp luật trong việc sản xuất, kinh doanh đảm bảo cung cấp hàng hóa có chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Do đó mà thị trường phân phối Việt Nam phát triển mạnh trong giai đoạn 2018 - 2022: TMBLHH&DTDVTD tăng 1,22 lần, từ 4.393.525,5 tỷ đồng năm 2018 tăng lên 5.363.264,7 tỷ đồng năm 2022.
Bên cạnh đó, chính sách khuyến khích dùng hàng nội địa tại cuộc vận động đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Theo thống kê của Ban Chỉ đạo Trung ương cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, đối với kênh bán lẻ truyền thống, tỷ lệ hàng Việt tại các chợ, cửa hàng tiện lợi chiếm tỷ lệ từ 60% trở lên; tại các hệ thống siêu thị trong nước duy trì ở mức cao: Co.opmart (90-93%), Satra (90-95%), Vissan (95%), Vinmart (63% theo mã hàng)... Tỷ lệ hàng Việt tại các hệ thống phân phối hiện đại của các doanh nghiệp FDI cũng được duy trì ở mức cao như hệ thống của Central Retail là 90% và hệ thống của AEON Việt Nam là 80%.
Thứ tư, chính sách quản lý hoạt động phân phối đối với nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện đúng theo các cam kết quốc tế và xu hướng phát triển
Chính sách quản lý hoạt động phân phối đối với nhà đầu tư nước ngoài, hiện theo Nghị định số 09/2018/NĐ-CP đã cởi mở hơn so với các quy định trước đó, theo hướng tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước và nước ngoài phát triển, cạnh tranh công bằng. Bên cạnh việc mở cửa thị trường phân phối, Việt Nam cũng có những quy định tại Thông tư số 34/2013/TT-BCT, theo đó có những yêu cầu đối với việc nhập khẩu hàng hóa đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là quyền phân phối hàng hóa nhập khẩu trong kho ngoại quan khi chưa thực hiện quyền nhập khẩu. Thêm vào đó, Nghị định số 152/2020/NĐ-CP được ban hành cũng giúp việc quản lý người lao động nước ngoài hoạt động trong các doanh nghiệp tại Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp phân phối trong nước và đầu tư nước ngoài
Thứ năm, chính sách quản lý và phát triển thương mại điện tử đã được ban hành, cơ bản đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
Các văn bản chính sách quản lý và phát triển TMĐT đã được ban hành và thực thi, tạo cơ chế để doanh nghiệp hoạt động ổn định, cạnh tranh lành mạnh, đồng thời có những biện pháp hữu hiệu để chống hàng giả, hàng nhái, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ trên các sản giao dịch TMĐT.
1.2. Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Thứ nhất, quản lý hoạt động phân phối chưa theo kịp với thực tế và quy mô phát triển, khuôn khổ pháp lý còn chồng chéo, chưa đồng bộ
Các chính sách cho phát triển thương mại vẫn chưa được quan tâm đúng mức và đó cũng là lý do khiến hạ tầng thương mại nội địa vẫn chưa phát triển đồng bộ, nhiều quy định phân loại chợ, siêu thị, trung tâm thương mại đã cũ, hoặc tuy mới được ban hành nhưng chưa theo kịp sự phát triển của các loại hình này trên thực tế. Quản lý nhà nước về thương mại tuy đã được đổi mới nhưng trên nhiều mặt nhưng cũng chưa theo kịp với thực tiễn hoạt động thương mại, dịch vụ. Các biện pháp điều hành của Chính phủ là phù hợp, song việc thực hiện còn có độ trễ, một số thủ tục còn phức tạp, gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn hỗ trợ. Chưa hình thành được những doanh nghiệp nội địa lớn giữ vai trò định hướng và tổ chức lưu thông, liên kết với sản xuất và xuất nhập khẩu tạo thành một hệ thống phân phối hiện đại, phát triển bền vững. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số lĩnh vực, ngành nghề vẫn chưa xây dựng được thương hiệu uy tín đối với người tiêu dùng, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước. Cùng với đó, việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp phân phối vừa và nhỏ còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, cần phải có cơ chế hỗ trợ để xây dựng các cửa hàng tiện lợi, hệ thống phân phối, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi.
Cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phân phối từ phía Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận vốn với chi phí thấp còn gặp nhiều khó khăn (thông qua tiếp cận nguồn vốn từ Quỹ Phát triển DNNVV). Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua phát triển hạ tầng thương mại còn chậm so với yêu cầu.
Thứ hai, thiếu cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường trong nước trước sự gia tăng mạnh của đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phân phối
Việt Nam có nhiều văn bản chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, nhưng hiện chưa xây dựng được cơ chế, chính sách để bảo vệ thị trường trong nước hoặc cơ chế hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phân phối. Thực tế của nhiều quốc gia, như Hàn Quốc, nước này thường xuyên có những điều tra, khảo sát để xác định rõ thị phần của các nhà bán lẻ vừa và nhỏ, so sánh với thị phần của các nhà bán lẻ quy mô lớn; xác định rõ thị phần của các nhà phân phối lớn trong nước so sánh với thị phần của các nhà phân phối lớn nước ngoài, xác định tỷ lệ hợp lý để phát triển. Từ đó, nước này sẽ ra những chính sách tạo hỗ trợ các nhóm yếu thế như nhà bán lẻ nhỏ và vừa, loại hình bán lẻ truyền thống phù hợp với các cam kết quốc tế.
Việt Nam chưa thiết lập được hệ thống rào cản kỹ thuật để bảo vệ thị trường trong nước trước sự hiện diện sâu rộng của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài và đặc biệt hơn là sự gia tăng nguồn cung hàng hóa nhập khẩu. Trên thực tế, việc sử dụng công cụ ENT để bảo vệ các nhà phân phối trong nước tại các địa phương còn thiếu thống nhất và chưa hiệu quả.
Thứ ba, chính sách quản lý và phát triển phân phối hàng hoá trong thương mại điện từ còn bất cập
Đối với chính sách quản lý và phát triển phân phối hàng hoá trong TMĐT, mặc dù đã ban hành nhiều văn bản chính sách, nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng. Bên cạnh Quyết định số 319/QĐ-TTg cần bổ sung, cập nhật thêm những chính sách về chống hàng giả, hàng nhái, hàng không rõ xuất xứ. Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 22/2017/NĐ-CP hoặc xây dựng những văn bản hướng dẫn để giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong TMĐT. Đồng thời, trên thực tế cần đẩy mạnh việc kiểm soát hoạt động thanh toán, nộp thuế trong môi trường TMĐT.
Thứ tư, triển khai chính sách phát triển thương mại, thị trường phân phối trong nước còn hạn chế
Chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển thương mại, phát triển thị trường phân phối tại nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, biên giới đã ban hành, nhưng việc triển khai trên thực tế còn hạn chế.
Chính sách quản lý, phát triển, đầu tư, nâng cấp chợ gặp nhiều khó khăn khi triển khai. Các quy định về chợ chưa cập nhật theo tình hình mới Với hệ thống các đại lý, cửa hàng tạp hóa, cơ sở kinh doanh cá thể chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp (nhỏ và vừa) rất hạn chế, do đó thực tế gặp khó khăn trong việc thống kê, nên chưa có chính sách cụ thể đối với loại hình này, trừ việc áp dụng thuế môn bài đối với hộ kinh doanh cá thể.
Thứ năm, hiệu quả thực thi của chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước còn chưa cao
Việt Nam đã ban hành và thực thi chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước. Tuy nhiên, hiệu quả thực thi của chính sách còn chưa cao vì chính sách chưa thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất, lưu thông phân phối và phát triển chung của nền kinh tế cả nước và bảo đảm tốc độ tăng trưởng luôn đi đôi với chất lượng tăng trưởng. Thị trường phân phối phát triển chưa được bền vững. Việc cụ thể hóa quan điểm và đường lối phát triển cho các doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn, thiếu sự đồng hành giữa các cơ quan quản lý như hải quan và quản lý thị trường, cũng như sự thiếu đồng bộ giữa các địa phương.
Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế của chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước do những nguyên nhân sau:
- Xây dựng văn bản chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước còn thiếu yếu tố dự báo đối với các mô hình kinh doanh mới, phương thức kinh doanh mới…
- Cộng đồng doanh nghiệp còn chưa tham gia tích cực trong quá trình xây dựng và phản biện chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước nên khi chính sách được ban hành và thực thi hiệu quả mang lại chưa cao.
- Quản lý nhà nước về hoạt động phân phối hàng hoá của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn lỏng lẻo. Hội đồng kiểm tra nhu cầu kinh tế ở mỗi địa phương xem xét về ENT lại khác nhau, đa phần cấp phép dễ dàng và chưa từ chối nhà đầu tư nước ngoài nào, một số địa phương còn áp dụng cả ENT đối với doanh nghiệp phân phối trong nước.
- Thực tiễn thương mại thay đổi nhanh dưới tác động của toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại, hội nhập và cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thương mại điện tử phát triển mạnh, xuất hiện mô hình kinh doanh mới, phương thức kinh doanh mới… mà chưa có trong quy định của chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối.
- Hoạt động thực thi pháp luật, đặc biệt là các quy định trong chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối chưa đầy đủ và nghiêm túc dẫn tới hiệu lực, hiệu quả thực thi thấp.
- Công tác QLNN đối với thị trường phân phối đã được tiến hành tích cực, nhưng công tác hướng dẫn các địa phương, các cấp cơ sở để triển khai điều tra, khảo sát, thống kê nắm tình hình còn nhiều hạn chế.
2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế
2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước
2.1.1. Đổi mới nhận thức và tư duy của nhà quản lý, hoạch định chính sách phát triển thị trường phân phối trong nước, đón đầu các xu hướng phát triển mới
- Đổi mới tư duy của nhà quản lý về cách tiếp cận và xây dựng tiêu chí đánh giá thực trạng của thị trường phân phối, đồng thời phải gắn với mục tiêu phát triển kinh tế.
- Đổi mới tư duy của nhà quản lý về việc nhìn nhận xu hướng phát triển mới trong lĩnh vực phân phối.
- Đổi mới tư duy phát triển thị trường phân phối theo chiều sâu.
- Khuyến khích đổi mới sáng tạo trong việc phát triển thị trường phân phối trong nước.
2.1.2. Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển
Chính sách tạo điều kiện cho doanh nghiệp phân phối trong nước phát triển:
- Nghiên cứu, áp dụng mô hình quốc tế để đưa ra các tỷ lệ của thị phần doanh thu (DN nhỏ và vừa so với các DN lớn; DN phân phối lớn trong nước so với DN có vốn đầu tư nước ngoài).
- Trường hợp các DN nhỏ và vừa, các loại hình thương mại truyền thống phát triển chậm, thị phần ngày càng giảm sút, có thể áp dụng các biện pháp để bảo vệ thị trường.
- Trường hợp các DN lớn có vốn đầu tư nước ngoài chiếm thị phần ngày càng cao trong các loại hình thương mại hiện đại, có thể áp dụng các biện pháp đánh giá kỹ thuật lưu thông hàng hóa và hiệu quả kinh doanh khi xem xét cấp giấy phép mở rộng, phát triển thị trường.
Chính sách quản lý hoạt động phân phối của các nhà đầu tư nước ngoài
- Hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước đối với hệ thống phân phối của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này nhưng cũng đảm bảo thuận tiện trong quản lý, kiểm soát ở mức độ thích hợp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, nhất là bảo vệ được các nhà bán lẻ nội địa, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng trong nước. Nghị định 09/2018/NĐ-CP đã hơn 5 năm triền khai, do đó cũng cần có những đánh giá, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, và đặc biệt cho đồng bộ với các quy định của Luật Doanh nghiệp 2020, Luật Đầu tư 2020.
- Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật liên quan quan đến hoạt động đối với hệ thống phân phối của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực TMĐT, để nâng cao sức cạnh tranh của ngàng bán lẻ trong nước, cũng như hạn chế cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền lợi của người tiêu dùng…
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tạo thuận lợi trong quá trình nắm bắt, theo dõi, và kịp thời trong công tác quản lý nhà nước.
- Chú trọng công tác quản lý cả ở khâu cấp phép và khâu sau cấp phép (hậu kiểm) đối với hoạt động phân phối của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Quán triệt, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ quản lý trong việc hướng dẫn cho thương nhân nước ngoài về hồ sơ, thủ tục, giải đáp thắc mắc về quy định pháp luật. Số hóa trong hoạt động quản lý nhà nước đối với hệ thống phân phối của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam thông qua hệ thống cổng thông tin điện tử.
Chính sách phát triển các loại hình thương mại
- Rà soát, bổ sung, sửa đổi một số văn bản chính sách phát triển các loại hình thương mại (chợ đầu mối, chợ bán buôn, chợ bán lẻ, siêu thị, trung tâm thương mại, chuỗi cửa hàng tiện lợi…), quan tâm phát triển các loại hình thương mại hiện đại phù hợp với xu hướng hội nhập, kinh tế phát triển và thu nhập của người dân ngày càng tăng.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích để thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển chợ đầu mối; bố trí quỹ đất đủ để đáp ứng nhu cầu xây dựng chợ đầu mối với đầy đủ các khu chức năng; đầu tư, cải tạo nâng cấp cơ sở vật chất của chợ đầu mối khang trang, hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường; tổ chức hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, tăng cường các dịch vụ phụ trợ, các khu chức năng; thay đổi phương thức mua bán, giao dịch tại chợ đầu mối theo hướng hiện đại, phát triển các dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, giám định chất lượng hàng hóa và các dịch vụ thương mại khác tại chợ đầu mối; tăng cường kiểm soát an toàn thực phẩm tại chợ và áp dụng các phương thức truy xuất hàng hóa kinh doanh tại chợ đầu mối; tăng cường quản lý và cải thiện tình hình vệ sinh môi trường của chợ đầu mối.
Nâng cao hiệu lực thực thi các chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước
Với đội ngũ cán bộ, công chức cần đổi mới phương thức làm việc, đảm bảo sự thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp về đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030; lấy kết quả cải cách hành chính hàng năm là tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của cơ quan, đơn vị; nâng cao chất lượng chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; coi trọng công tác thi đua, khen thưởng gắn với kết quả, hiệu quả cải cách hành chính.
2.1.3. Cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp phân phối trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế
- Cơ chế, chính sách trong thời gian tới cần chú trọng hơn tới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phân phối trong nước phát triển. Chính sách cụ thể, có mục tiêu, hướng dẫn rõ ràng để các doanh nghiệp hiểu và thực hiện, có chương trình hỗ trợ, khuyến khích nhằm giúp doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ; nâng cao hiệu quả thực thi của chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, hỗ trợ cho các doanh nghiệp phân phối trong nước phát triển.
- Thực hiện nhanh việc quy hoạch lại tổng thể cung cầu của các vùng nguyên liệu trong nước, cung ứng nội địa và cung ứng quốc tế với mức độ phân công và chuyên môn hóa cao, sát thực và khoa học với những dự báo trung và dài hạn trong thời gian sắp tới.
- Xem xét đưa Ngành bán lẻ vào Danh sách các lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số; có Chương trình hạt giống để hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ nội phát triển trở thành các “kỳ lân” của Ngành.
- Xây dựng cơ chế phát triển kênh bán lẻ hiện đại cho các doanh nghiệp nội địa nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại nội địa phát triển bền vững trước sự cạnh tranh của các doanh nghiệp FDI.
- Cần ban hành và thực thi chính sách hỗ trợ chuyển đổi xanh, đáp ứng xu hướng tiêu dùng hiện nay, đưa ra biện pháp khuyến khích và hỗ trợ tài chính để các doanh nghiệp áp dụng các phương pháp và quy trình sản xuất, phân phối thân thiện với môi trường.
- Hỗ trợ xây dựng và phát triển mạng lưới đại lý, hệ thống kho vận và hệ thống chuỗi bán lẻ, tạo ra môi trường thuận lợi và cơ sở hạ tầng phù hợp để các doanh nghiệp phân phối có thể hoạt động hiệu quả.
- Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp phân phối trong nước mở rộng hoạt động phân phối ra nước ngoài, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
2.1.4. Hoàn thiện chính sách phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại, nhất là các hạ tầng phân phối bán lẻ hiện đại, hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ TMĐT, khuyến khích đầu tư phát triển dịch vụ logistics, dịch vụ thanh toán trực tuyến
- Tiến hành rà soát, bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại, trong đó có các kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực phân phối, bán lẻ.
- Rà soát, tháo gỡ những vướng mắc về thể chế, chính sách để đẩy mạnh đầu tư cho kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực phân phối.
2.1.5. Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp trước sự gia tăng thâm nhập của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài
- Thường xuyên đổi mới công tác xây dựng, ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn.
Theo đó, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong quản lý thị trường phân phối trong nước, các Hiệp hội đóng vai trò tham mưu, tư vấn.
Hướng xây dựng: Cần tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chuẩn đã cũ, lạc hậu thành những tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với pháp luật Việt Nam và các cam kết quốc tế.
- Chú trọng công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
- Có thể nghiên cứu sâu hơn một số biện pháp bảo hộ theo các kinh nghiệm của các nước trên thế giới như: chính sách quản lý nhập khẩu nhằm kiểm soát và giới hạn số lượng, hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài, nhất là những hàng hóa có thể cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa sản xuất trong nước; rào cản phi thuế quan và giới hạn kỹ thuật để bảo vệ sản phẩm trong nước như quy định về chất lượng và an toàn sản phẩm; một số quy định về quyền sở hữu địa phương cho doanh nghiệp trong nước như ưu tiên đăng ký thương hiệu và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ…
2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp, Hiệp hội
2.2.1. Tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước
Thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước: Tích cực tham gia góp ý cho dự thảo các văn bản chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế; tích cực tham gia, hỗ trợ các cơ quan chức năng trong nghiên cứu, xây dựng các chính sách phát triển thị trường phân phối trong nước.
Làm cầu nối giữa doanh nghiệp phân phối và cơ quan quản lý trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước: Thay mặt cộng đồng doanh nghiệp phân phối trong nước kiến nghị tới các cơ quan chức năng xây dựng, sửa đổi các văn bản chính sách, pháp luật để khắc phục những bất hợp lý của các văn bản chính sách.
2.2.2. Tăng cường phổ biến các văn bản chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Tăng cường phổ biến các văn bản chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối đến doanh nghiệp phân phối trong nước; đẩy mạnh và đa dạng hóa hoạt động tuyên truyền, phổ biến, hướng tới các nhóm doanh nghiệp phân phối trên phạm vi cả nước.
- Thực hiện tốt chức năng là đại diện và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp phân phối, theo đó tư vấn các chính sách, pháp luật cho các hội viên; bảo vệ hội viên trong các tranh chấp thương mại trong lĩnh vực phân phối, hòa giải các tranh chấp giữa các hội viên; hỗ trợ hoạt động kinh doanh phân phối của các hội viên.
2.2.3. Giải pháp về phía doanh nghiệp phân phối trong nước
- Tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối trong nước
- Kiến nghị, sửa đổi bổ sung các quy định của chính sách quản lý và phát triển thị trường phân phối
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Công Thương (2020), Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Hà Nội - 2020.
- Bộ Công Thương (2020), Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn 2021 - 2030, Hà Nội - 2020.
- Bộ Công Thương (2021), Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2021 - 2025” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 386/QĐ-TTg ngày 17 tháng 3 năm 2021).
- Phạm Hùng Cường và Trần Anh Tài (2021), “Phát triển ngành dịch vụ phân phối ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Hà Nội - 2021.
- Lưu Hà (2023), “Ngành bán lẻ nội và ngoại cạnh tranh nảy lửa”, Tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 11, ngày 13/3/2023.
- Trần Thu Hạnh (Chủ nhiệm), Nhiệm vụ xây dựng báo cáo đánh giá thực trạng quản lý và phát triển hệ thống phân phối của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài tại Việt Nam và đề xuất nâng cao hiệu quả quản lý trong thời gian tới, Báo cáo tổng hợp, tháng 12/2020.
- Đinh Thị Mỹ Loan (2022), “Ngành dịch vụ bán lẻ Việt Nam trước cơ hội và thách thức mới”, Tạp chí Thương trường, số tháng 1/2022, tr. 5-8.