Một số định hướng và giải pháp thúc đẩy liên kết phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp tại các địa phương dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào

06:55 - 12/08/2025

Tạ Đức Tuân[1]

Tóm tắt: Sau 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 45 năm ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, quan hệ kinh tế Việt Nam - Lào không ngừng phát triển theo hướng tích cực, ngày càng thực chất và đi vào chiều sâu. Trong quan hệ hợp tác về  kinh tế, hai nước đã và đang có những sự quan tâm, tập trung phát triển liên kết khu kinh tế, khu công nghiệp giữa các địa phương của hai nước có chung đường biên giới. Bài viết này tập trung vào một số định hướng và giải pháp thúc đẩy mối liên kết đó.

Từ khoá: Liên kết khu kinh tế, liên kết Việt Lào

1. Tổng quan về liên kết phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp tại các địa phương dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào

Sau 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và 45 năm ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác, quan hệ kinh tế Việt Nam - Lào không ngừng phát triển theo hướng tích cực, ngày càng thực chất và đi vào chiều sâu. Hai quốc gia có chung đường biên giới dài hơn 2.300 km, trải dài qua nhiều tỉnh, thành phố, là khu vực giàu tiềm năng phát triển và giữ vị trí chiến lược quan trọng trên tuyến dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào. Trong bối cảnh đó, các khu kinh tế (KKT) và khu công nghiệp (KCN) đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) của mỗi nước, đặc biệt là trong việc kết nối, phối hợp phát triển hạ tầng, logistics và thương mại qua biên giới. Việc quy hoạch và phát triển KKT, KCN được định hướng đồng bộ với hệ thống đô thị, nông thôn, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, cân đối giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân ở khu vực biên giới.

Theo báo cáo đến hết năm 2024 (tổng hợp từ báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Quản lý các KCN Việt Nam), hệ thống các khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK), KCN của Việt Nam tiếp tục mở rộng với 418 KCN được thành lập trên cả nước, tăng 6 KCN so với năm 2023. Tổng diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 131,5 nghìn ha, trong đó 301 KCN đã đi vào hoạt động (chiếm 94,8 nghìn ha) và 117 KCN đang trong giai đoạn triển khai (36,7 nghìn ha). Đáng chú ý, tỷ lệ lấp đầy bình quân đã cải thiện đạt 59%, với các KCN đang hoạt động đạt 73,5%, phản ánh sự phục hồi tích cực của làn sóng đầu tư sau đại dịch.

Tại khu vực biên giới Việt Nam - Lào, các KKTCK tiếp tục đóng vai trò động lực phát triển kinh tế vùng. Năm 2024 ghi nhận sự gia tăng đáng kể về kim ngạch thương mại biên mậu, ước đạt 1,2 tỷ USD, tăng 15% so với năm trước. Trong đó, các KKTCK trọng điểm như Lao Bảo (Quảng Trị), Bờ Y (Quảng Ngãi) KKTCK Cầu Treo (Hà Tĩnh), KKTCK Cha Lo (Quảng trị), KKTCK Nậm Cắn (Nghệ An), KKTCK Bờ Y (Quảng Ngãi)... đã thu hút thêm 47 dự án đầu tư mới với tổng vốn đăng ký 320 triệu USD, tập trung vào các lĩnh vực nông sản chế biến, logistics và năng lượng tái tạo.

Định hướng phát triển giai đoạn 2025-2030 tiếp tục nhấn mạnh: Nâng cấp hạ tầng KCN xanh theo tiêu chuẩn quốc tế (LEED, ISO 14001); phát triển chuỗi cung ứng đa phương thức tại các KKTCK; ứng dụng công nghệ số trong quản lý và vận hành.

Đến năm 2030 đặt mục tiêu phát triển các KKT, KCN bền vững theo mô hình “3 trong 1” (Khu kinh tế, khu công nghiệp - khu đô thị - khu dịch vụ) với hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đồng bộ, hiện đại. Hiện các KKT, KCN của Việt Nam - Lào đang hướng đến thu hút đầu tư theo chiều sâu, phát triển bền vững. Thời gian tới, ưu tiên những doanh nghiệp có công nghệ sản xuất hiện đại, giá trị gia tăng cao; tăng năng lực xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ; hạn chế các dự án có khả năng gây ô nhiễm môi trường. Trong đó tập trung thu hút vào các KKT, KCN đã được quy hoạch và phát triển bài bản.

Các KKT, KCN qua biên giới đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế các quốc gia chung đường biên giới. Mô hình KKT qua biên giới đã áp dụng thành công tại nhiều quốc gia, song chưa được triển khai thực tế ở Việt Nam. Trên tuyến biên giới Việt Nam có 15 cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu quốc gia giáp Lào; trong đó, có 8 cặp cửa khẩu quốc tế.

Phát triển KKT, KCN ở CHDCND Lào là yêu cầu cấp thiết đồng thời là thách thức to lớn đối với Đảng và Nhà nước CHDCND Lào trong sự nghiệp xây dựng phát triển CNH, HĐH và thực hiện đường lối đổi mới của Đảng để đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển tiến lên phồn vinh, hạnh phúc và CNXH.

Trước bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển của CMCN 4.0, Việt Nam - Lào cần hướng tới đổi mới, tái cấu trúc và hoàn thiện mô hình các KCN nhằm bắt kịp với xu thế toàn cầu. Phát triển các KKT, KCN phải đảm bảo hài hòa lợi ích, lâu dài, lấy hiệu quả KTXH, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững làm mục tiêu cao nhất.

Hội nghị Cấp cao song phương Việt Nam - Lào ngày 30/12/2024 tái khẳng định cam kết thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Hai bên đã thống nhất triển khai nhiều văn bản quan trọng như: Hiệp định thương mại song phương mới, Hiệp định thương mại biên giới, Nghị định thư sửa đổi về quá cảnh hàng hóa, và Đề án phát triển thương mại biên giới Việt Nam - Lào. Các mặt hàng xuất khẩu song phương tiếp tục được hưởng ưu đãi thuế suất 0% trong khuôn khổ ASEAN và các hiệp định song phương. Đặc biệt, hai Chính phủ đã thống nhất chủ trương thành lập KKT, KCN chung Việt Nam - Lào tại khu vực giáp ranh, với sự hỗ trợ chính sách đặc thù, cơ chế điều phối liên Chính phủ và đầu tư hạ tầng logistics hiện đại, nhằm hình thành chuỗi cung ứng liên quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.

Tuy nhiên, mô hình liên kết KKT, KCN hiện nay vẫn đối mặt với nhiều thách thức. Cụ thể là:

Thứ nhất, hạ tầng kỹ thuật kết nối qua biên giới còn thiếu đồng bộ. Nhiều tuyến như Quốc lộ 9, 8A và các trục kết nối cửa khẩu vẫn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tỷ lệ đường biên giới được nhựa hóa tại Việt Nam mới đạt khoảng 60%, trong khi tại Lào dưới 45% (năm 2023).

Thứ hai, chính sách ưu đãi tại các KKT biên giới còn kém cạnh tranh so với các khu vực ven biển và đô thị. Ví dụ, trong khi các KKT ven biển có thể miễn thuế TNDN tới 15 năm, thì nhiều KKT biên giới chỉ được ưu đãi trong 4-10 năm (theo Quyết định 31/2021/QĐ-TTg). Điều này làm giảm sức hút đầu tư vào vùng biên.

Thứ ba, quy hoạch KKT, KCN còn phân tán và thiếu liên kết vùng, liên quốc gia. Việc chưa có cơ chế điều phối giữa các tỉnh giáp ranh như Quảng Trị - Savannakhet, Nghệ An - Bolikhamxay, hay giữa các bộ ngành hai nước khiến hợp tác còn rời rạc, dễ chồng lặp hoặc cạnh tranh thiếu hiệu quả.

Thứ tư, nguồn lực tài chính, nhân lực và công nghệ còn hạn chế. Giai đoạn năm (2016-2024), tổng vốn đầu tư từ ngân sách trung ương cho các KKT biên giới chỉ đạt khoảng 175.000 tỷ đồng, chiếm 6,14% tổng vốn đầu tư phát triển toàn quốc. Cùng với đó, vùng biên vẫn thiếu hụt nhân lực kỹ thuật và quản trị chất lượng cao, ảnh hưởng đến năng lực triển khai công nghiệp, dịch vụ và logistics hiện đại.

Trong bối cảnh đó việc xác định một số định hướng và giải pháp thúc đẩy liên kết phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp tại các địa phương dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực thi các hiệp định thương mại, các cam kết thúc đẩy phát triển kinh KTXH hai nước Việt Nam - Lào. Bài viết này tập trung vào việc xác định một số định hướng, giải pháp thúc đẩy liên kết phát triển khu kinh tế  khu công nghiệp tại các tỉnh biên giới có tiềm năng phát triển KKT, KCN và cửa khẩu chiến lược, nhằm hiện thực hóa các cam kết hợp tác song phương, thúc đẩy liên kết vùng, tạo động lực tăng trưởng mới cho khu vực khó khăn, phát huy vai trò các KKT, KCN biên giới trong chuỗi giá trị ASEAN, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh và củng cố quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh hội nhập sâu rộng.

2. Một số định hướng thúc đẩy liên kết phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp tại các địa phương dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào

Đến năm 2030, phát triển liên kết các KKT, KCN tại các địa phương dọc tuyến biên giới Việt Nam - Lào cần được triển khai theo hướng tổng thể, liên vùng, gắn kết với chiến lược phát triển quốc gia và hợp tác song phương Việt Nam - Lào, với các định hướng cụ thể sau:

(1). Hình thành mô liên kết khu kinh tế, khu công nghiệp qua biên giới Việt Nam - Lào theo chuỗi giá trị

Định hướng phát triển liên kết KKT, KCN qua biên giới giữa Việt Nam - Lào cần dựa trên các nguyên lý về phát triển bền vững, kinh tế khu vực, và chuỗi giá trị liên quốc gia. Trên nền tảng đó, mô hình chuỗi giá trị được xác định là cơ sở khoa học nhằm tối ưu hóa lợi thế so sánh của từng quốc gia, tăng cường tính bổ trợ giữa các ngành kinh tế, đồng thời thúc đẩy sự lan tỏa về công nghệ, vốn và lao động trong khu vực biên giới.

Phát triển các liên kết KKT, KCN tại các cửa khẩu ưu tiên trước (như Lao Bảo - Densavanh, Cầu Treo - Nam Phao, Bờ Y - Phoukeua) sẽ là đối tượng nghiên cứu điển hình để đánh giá hiệu quả mô hình hợp PPP, phát triển logistics qua hai nước, và tích hợp hạ tầng mềm như chính sách thương mại, thuế quan và hải quan điện tử. Đồng thời, mô hình này cần được đặt trong bối cảnh rộng hơn của hợp tác GMS, để xây dựng luận cứ khoa học cho việc hình thành hành lang kinh tế qua hai nước, từ đó góp phần nâng cao vai trò của Việt Nam - Lào trong cấu trúc kinh tế ASEAN. Thiết lập chuỗi giá trị Việt Nam - Lào trong các lĩnh vực có thế mạnh sau:

Chế biến nông, lâm sản: Nguyên liệu từ Lào, chế biến tại KCN Việt Nam, xuất khẩu ra khu vực.

Năng lượng tái tạo, sinh khối: Hợp tác khai thác tiềm năng thuỷ điện, điện sinh khối khu vực biên giới.

Logistics qua biên giới: Kết nối KKT, KCN, cảng biển để tạo hành lang vận tải quốc tế hiệu quả.

(2) Phát triển hạ tầng giao thông, logistics đồng bộ qua biên giới


Phát triển hệ thống hạ tầng giao thông và logistics đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao hiệu quả liên kết các khu kinh tế (KKT) và khu công nghiệp (KCN) dọc tuyến biên giới Việt Nam – Lào. Trước hết, cần ưu tiên đầu tư các tuyến đường trọng điểm kết nối trực tiếp giữa KKT, KCN với cửa khẩu quốc tế, cảng biển, cảng cạn và hệ thống đường sắt xuyên biên giới trong tương lai. Song song với đó, việc xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật – từ mạng lưới điện, cấp nước đến viễn thông – và tích hợp hạ tầng số vào các khu công nghiệp hiện hữu sẽ hướng tới mô hình KCN sinh thái, thông minh và phát triển bền vững.

Hiện nay, một số mô hình kết nối tiêu biểu đã được hình thành và tiếp tục được mở rộng. Mô hình Lao Bảo – Densavanh (Quảng Trị – Savannakhet) kết nối qua Quốc lộ 9 (EWEC) tạo tuyến vận tải từ cảng biển Đông (Việt Nam) xuyên Lào, Thái Lan đến Myanmar; tuyến QL9 và AH16 đã được nâng cấp, hỗ trợ thuận tiện cho vận chuyển container và hành khách, đồng thời hình thành hải quan một cửa, kho bãi, cảng cạn (ICD) và dịch vụ logistics trung chuyển hàng hóa giữa Việt Nam, Lào và Thái Lan. Mô hình Cầu Treo – Nam Phao (Hà Tĩnh – Bolikhamxay) kết nối bằng Quốc lộ 8A, thông qua đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 1A tới cảng Vũng Áng – Sơn Dương, đồng thời có khả năng kết nối với đường sắt Lào – Việt Nam, hình thành hành lang logistics liên vùng Bắc Trung Bộ – Trung Lào. Mô hình Bờ Y – Phoukeua (Kon Tum – Attapeu) là mắt xích chiến lược trong Tam giác phát triển Việt Nam – Lào – Campuchia và mở rộng EWEC; cửa khẩu quốc tế Bờ Y kết nối với Attapeu qua Quốc lộ 40 và đường Hồ Chí Minh, liên thông với trục giao thông Tây Nguyên và cảng Chu Lai, Dung Quất, hỗ trợ vận tải hàng nặng và thúc đẩy phát triển trung tâm logistics, KCN tại ngã ba Đông Dương.

Những mô hình này tạo cơ sở thực tiễn quan trọng để hình thành mạng lưới hạ tầng kết nối đồng bộ, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, thương mại và xuất nhập khẩu qua biên giới giữa hai nước.

(3) Đa dạng hóa ngành nghề, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và bảo vệ môi trường

Đa dạng hóa ngành nghề và thu hút đầu tư có chọn lọc là hướng đi chiến lược để phát triển bền vững các KKT, KCN dọc biên giới Việt Nam – Lào. Cần tập trung vào các ngành phù hợp với điều kiện tự nhiên và lợi thế so sánh của mỗi vùng, như chế biến nông – lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, năng lượng tái tạo (thủy điện nhỏ, điện mặt trời, điện sinh khối), logistics và thương mại biên mậu. Đồng thời, lồng ghép mô hình kinh tế tuần hoàn và chính sách bảo vệ môi trường trong quy hoạch, thiết kế và vận hành KKT, KCN nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực, tối ưu hóa sử dụng tài nguyên và gia tăng giá trị sản xuất.

Một giải pháp then chốt là thúc đẩy mô hình KCN sinh thái (Eco-Industrial Park) tại Lào, nơi có dư địa phát triển và nhu cầu chuyển đổi công nghệ cao. Cụ thể, khuyến khích doanh nghiệp áp dụng công nghệ tái chế chất thải rắn, tuần hoàn nước thải và tận dụng năng lượng tái tạo (điện mặt trời mái nhà, sinh khối) trong sản xuất. Mô hình tiềm năng là KCN Tân Thanh (tỉnh Khammouane), nơi có thể kết hợp nhà máy tái chế nhựa thành nguyên liệu cho ngành dệt may xuất khẩu, vừa tiết giảm chi phí, vừa nâng cao tính bền vững của chuỗi cung ứng.

Để hỗ trợ quá trình chuyển đổi này, cần thành lập Quỹ Môi trường Liên quốc gia Việt Nam – Lào, hoạt động độc lập và tài trợ cho các dự án giảm phát thải carbon, quản lý chất thải rắn, trồng rừng bền vững và phục hồi sinh thái. Nguồn vốn có thể huy động từ các tổ chức quốc tế (UNDP, ADB, GCF) và doanh nghiệp cam kết phát triển xanh thông qua đóng góp tự nguyện hoặc cơ chế đối tác công – tư.

(4) Thúc đẩy hợp tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quyết định nhằm đảm bảo hiệu quả vận hành KKT, KCN và tăng cường năng lực hội nhập. Định hướng đến năm 2030, hai nước cần triển khai hợp tác toàn diện trong đào tạo nghề và giáo dục đại học tại các địa phương biên giới. Các chương trình đào tạo phải gắn kết chặt chẽ với thực tiễn KKT, KCN (cơ khí, điện – tự động hóa, logistics, công nghệ thông tin, chế biến nông sản, dịch vụ thương mại biên mậu) và khuyến khích mô hình “doanh nghiệp đồng hành với trường học” để học viên có điều kiện thực hành ngay tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phát triển chương trình song ngữ (tiếng Việt – tiếng Lào), trao đổi giảng viên, sinh viên và xây dựng khung năng lực nghề nghiệp tương đương sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho lao động di chuyển hợp pháp giữa hai nước.

(5) Xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi chung cho khu vực biên giới liên kết

Thiết lập hệ thống chính sách ưu đãi chung, thống nhất và tương hỗ là nền tảng để thu hút đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động xuyên biên giới. Hai bên cần phối hợp rà soát, điều chỉnh quy định pháp lý về thuế, phí, hải quan, lao động và đầu tư ở khu vực biên giới, hướng đến miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi thuê đất và tín dụng, cũng như tiếp cận hạ tầng kỹ thuật, logistics thuận lợi. Việc thực hiện mô hình “một cửa – một điểm dừng” tại các cặp cửa khẩu quốc tế sẽ rút ngắn thời gian thông quan và giảm chi phí giao dịch. Đồng thời, chia sẻ thông tin, số liệu thống kê và dự báo đầu tư khối liên kết sẽ giúp hoạch định chính sách linh hoạt, sát thực tế và tạo tiền đề cho hình mẫu KKT, KCN liên biên giới hiệu quả, góp phần củng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào.

(6) Phát triển nguồn nhân lực và hợp tác giáo dục kỹ thuật

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nhân lực kỹ thuật chất lượng tại các khu kinh tế – khu công nghiệp vùng biên giới Việt Nam – Lào, cần thành lập ba trung tâm đào tạo nghề liên quốc gia hiện đại, lần lượt đặt tại Savannakhet (liên kết với KKT Lao Bảo), Khammuane (liên kết với KKT Cầu Treo) và Hà Tĩnh (liên kết với cảng Vũng Áng và các khu FDI). Mỗi trung tâm sẽ được trang bị cơ sở vật chất tiên tiến, chương trình đào tạo chuẩn quốc tế và đội ngũ giảng viên song ngữ nhằm đảm bảo tính liên thông giữa yêu cầu thực tiễn sản xuất – kinh doanh và năng lực chuyên môn của người học.

Song song với việc xây dựng cơ sở vật chất, chương trình đào tạo cần được thiết kế theo mô hình “đôi bạn cùng tiến” giữa nhà trường và doanh nghiệp. Cụ thể, các cơ sở nghề Việt Nam phối hợp chặt chẽ với nhà đầu tư FDI đang hoạt động trong KCN để xây dựng chương trình giảng dạy linh hoạt, sát với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, đặc biệt tập trung vào các ngành có giá trị gia tăng cao như logistics, công nghiệp chế biến, điện tử và quản trị công nghiệp số. Mô hình này không chỉ giúp người học được thực hành ngay tại môi trường sản xuất, mà còn tạo ra cơ hội thực tập và việc làm trực tiếp cho sinh viên ngay sau khi tốt nghiệp.

Mục tiêu đến năm 2030 là bảo đảm mỗi năm các trung tâm đào tạo này cung ứng từ 3.000 đến 5.000 lao động kỹ thuật có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu sản xuất công nghiệp. Tỷ lệ sinh viên có việc làm ngay sau khi tốt nghiệp dự kiến đạt 80%, trong đó ít nhất 30% sở hữu kỹ năng số thành thạo cùng khả năng sử dụng tiếng Lào và tiếng Anh ở mức độ giao tiếp thương mại. Kết quả này sẽ góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của khu vực biên giới trong bối cảnh hội nhập và phát triển công nghiệp 4.0.

(7) Xây dựng mô hình khu kinh tế – khu công nghiệp liên kết qua biên giới

Mô hình đầu tiên tập trung vào cụm Lao Bảo – Densavan (Quảng Trị – Savannakhet), nơi có lợi thế về nguồn nguyên liệu gỗ và dược liệu phong phú cùng hạ tầng cửa khẩu đã hoàn thiện. Tại đây, các hoạt động chế biến gỗ, khai thác và tinh chế dược liệu, dịch vụ logistics đa phương thức và phát triển năng lượng tái tạo sẽ được đồng bộ nhằm khai thác tối đa thế mạnh tự nhiên và vị trí chiến lược trên hành lang Đông–Tây (EWEC).

Tại phía Bắc, mô hình Cầu Treo – Nam Phao (Hà Tĩnh – Bolikhamxay) hướng đến phát triển các ngành nông sản, chế biến thực phẩm và cơ khí nhẹ. Việc liên kết hai bên biên giới không chỉ khai thác nguồn nguyên liệu nông nghiệp của Nghệ An – Hà Tĩnh và Bolikhamxay mà còn tận dụng lợi thế hạ tầng đường Hồ Chí Minh và Quốc lộ 8A để hình thành chuỗi cung ứng khép kín, từ thu mua nguyên liệu đến chế biến, phân phối và xuất khẩu.

Trong khi đó, cụm Bờ Y – Phoukeua (Quảng Ngãi – Attapeu) đóng vai trò là đầu mối logistics quan trọng, đồng thời phát triển chế biến nông – lâm sản của Tây Nguyên và Nam Lào, năng lượng sinh khối và các dịch vụ thương mại biên mậu. Mô hình này được định hướng sản xuất sạch, thông minh và gắn kết chặt chẽ với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ 4.0 để nâng cao hiệu quả quản lý – vận hành và phát triển bền vững.

Định hướng đến năm 2030 đặt mục tiêu thu hút tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt tối thiểu 1,5 tỷ USD, tạo việc làm cho 10.000–15.000 lao động địa phương, trong đó ít nhất 60% là lao động Lào hoặc cư dân vùng biên. Đồng thời, tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trong ba mô hình này sẽ đạt tối thiểu 70%, với ít nhất 30% diện tích dành cho các ngành công nghệ cao và xanh, góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng giá trị gia tăng và bảo vệ môi trường.

3. Một số giải pháp thúc đẩy liên kết phát triển khu kinh tế, khu công nghiệp tại các địa phương dọc tuyến biên giới Việt Nam – Lào đến năm 2030

3.3.1. Cơ chế, chính sách

Việc phát triển các khu kinh tế – khu công nghiệp (KKT, KCN) dọc biên giới Việt Nam – Lào đòi hỏi một khuôn khổ pháp lý xuyên biên giới, thống nhất và mang tính ràng buộc, nhằm tạo hành lang minh bạch cho đầu tư, xây dựng, vận hành và quản lý liên quốc gia. Hiện chưa có văn bản song phương nào quy định toàn diện về nguyên tắc hợp tác trong quy hoạch, phân định trách nhiệm cấp phép, giám sát môi trường, giải quyết tranh chấp hay ưu đãi thuế – đất – lao động, dẫn đến rủi ro pháp lý cao và chi phí tuân thủ lớn cho nhà đầu tư. Do đó, ưu tiên trước hết là ký kết Hiệp định hoặc Nghị định thư hợp tác cấp Chính phủ về phát triển KKT, KCN liên biên giới. Văn bản này phải quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các bộ, ngành và chính quyền địa phương hai bên; cơ chế khung về ưu đãi thuế, hải quan, đất đai và tài chính; tiêu chuẩn kỹ thuật về hạ tầng kết nối, an toàn và bảo vệ môi trường; đồng thời thành lập cơ chế giải quyết tranh chấp liên quốc gia (trọng tài hoặc hòa giải).

Song song với khung pháp lý chung, cần hài hòa thủ tục hành chính và ưu đãi đầu tư giữa hai nước để giảm chi phí và rút ngắn thời gian thông quan, cấp phép. Việc tương thích hóa quy trình cấp phép, đăng ký doanh nghiệp, xuất nhập khẩu và thực hiện cơ chế “một cửa – hai quốc gia” tại các KKTCK không chỉ tiết giảm 30–50% thời gian xử lý hồ sơ mà còn gia tăng sức hấp dẫn đầu tư. Các nội dung hài hòa bao gồm: thủ tục hành chính mẫu được hai bên công nhận; thuế suất ưu đãi chung (miễn thuế TNDN 5–10 năm, VAT 0% cho hàng trung chuyển, miễn/giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu); và thiết lập “vùng ưu đãi đặc biệt” với cơ chế linh hoạt do cơ quan quản lý KKT, KCN hai nước thực thi.

Để đảm bảo triển khai hiệu quả, cần thành lập Tổ soạn thảo liên chính phủ với sự tham gia của Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp (Việt Nam) và Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Văn phòng Thủ tướng (Lào), cùng đại diện chính quyền các tỉnh biên giới. Đồng thời, ngay tại địa phương, chính quyền các tỉnh có KKT, KCN cần chủ động phối hợp, đề xuất quy định chi tiết và tổ chức nguồn lực thực thi, giám sát và điều chỉnh chính sách.

Cuối cùng, thành lập Ban Điều phối Liên kết Vùng biên Việt Nam – Lào, với thành viên là đại diện các bộ, ngành, chính quyền địa phương và doanh nghiệp lớn, sẽ đảm trách việc đồng bộ quy hoạch hạ tầng – logistics – năng lượng, phê duyệt dự án ưu tiên, điều phối nguồn vốn (ODA, ngân sách trung ương, FDI) và giải quyết xung đột lợi ích theo cơ chế hòa giải song phương. Sự hình thành ban điều phối là bước then chốt để hiện thực hóa khung pháp lý và cơ chế hành chính, hướng tới mô hình phát triển liên kết bền vững cho khu vực biên giới.

3.3.2. Liên kết phát triển KKT, KCN và chuỗi giá trị sản xuất–thương mại dọc biên giới Việt Nam–Lào

Việc hình thành một số mô hình KKT–KCN liên kết qua biên giới sẽ tận dụng tối đa lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý và nhu cầu thị trường của cả hai nước, đồng thời kiến tạo các cụm sản xuất đa ngành và tích hợp dịch vụ theo chuỗi giá trị. Đến năm 2030, mỗi mô hình được kỳ vọng trở thành trung tâm tăng trưởng vùng, thu hút tổng vốn FDI tối thiểu 1,5 tỷ USD và đóng góp trực tiếp vào mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt trên 2 tỷ USD mỗi năm.

Mô hình 1: Lao Bảo–Densavan (Quảng Trị–Savannakhet)

Quy hoạch trên diện tích 600 ha, trung tâm này sẽ tập trung vào các ngành chế biến gỗ, tinh chế dược liệu, logistics biên giới và năng lượng tái tạo. Với hạ tầng cửa khẩu hoàn chỉnh và quy hoạch kho trung chuyển hai chiều, Lao Bảo–Densavan sẽ trở thành mắt xích kết nối hành lang Đông–Tây (EWEC), đảm bảo dòng nguyên liệu từ vùng trung Lào đến miền Trung Việt Nam.

Mô hình 2: Cầu Treo–Nam Phao (Hà Tĩnh–Bolikhamxay)

Trên quy mô 550 ha, cụm Cầu Treo–Nam Phao ưu tiên phát triển chế biến nông sản, thực phẩm, cơ khí nhẹ và dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp. Vị trí cửa ngõ kết nối qua Quốc lộ 8A và Quốc lộ 1A cho phép tận dụng nguồn nguyên liệu tươi và lao động địa phương, đồng thời áp dụng cơ chế quản lý đồng thuận và ưu đãi thuế chung giữa hai nước.

Mô hình 3: Bờ Y–Phoukeua (Quảng Ngãi–Attapeu)

Phân bổ 275 ha mỗi bên, mô hình này định hướng phát triển logistics xuyên biên giới, chế biến nông – lâm sản Tây Nguyên và Nam Lào, năng lượng sinh khối tái tạo và thương mại biên mậu. Cơ chế hợp tác linh hoạt sẽ bao gồm thương mại tự do nội khối, ưu đãi thuế, công nhận tiêu chuẩn kỹ thuật và lao động chung, cùng quy hoạch hạ tầng mềm như ICD, kho ngoại quan, trạm kiểm dịch và nền tảng dữ liệu hải quan liên thông.

Về phát triển chuỗi giá trị, nguyên liệu thô tại Lào (gỗ, nông sản, dược liệu, sinh khối) sẽ được khai thác bền vững và vận chuyển qua biên giới để chế biến sâu tại các KCN Việt Nam đạt chuẩn môi trường. Sản phẩm hoàn thiện sau đó sẽ xuất khẩu qua các cảng biển miền Trung vào ASEAN và thị trường thứ ba. Mục tiêu tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân 15–18 %/năm, với nhóm hàng chủ lực chiếm khoảng 80 % kim ngạch gồm nông sản chế biến (30 %), gỗ (20 %) và điện tử–cơ khí (30 %). Cơ chế thực thi dựa trên Hiệp định cấp Chính phủ về hợp tác KKT–KCN liên biên giới, chính sách ưu đãi song phương (thuế, đất đai, hải quan, lao động), nâng cấp hạ tầng (QL 8, 9, 14; ICD, kho ngoại quan), phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật địa phương và khuyến khích liên doanh doanh nghiệp hai nước theo chuỗi sản xuất – dịch vụ.

3.3.3. Phát triển hạ tầng giao thông và logistics

Hệ thống giao thông và logistics xuyên biên giới là tiền đề cho liên kết hiệu quả các khu kinh tế – khu công nghiệp (KKT, KCN) Việt Nam–Lào. Hiện tại, kết nối giữa KKT, KCN với cảng biển và trung tâm nội địa còn phân tán, thiếu cảng cạn (ICD), kho bãi tập trung và trung tâm phân phối, dẫn đến chi phí vận chuyển cao và thời gian lưu thông kéo dài. Trước bối cảnh chuỗi cung ứng ASEAN tái cấu trúc, việc hoàn thiện mạng lưới hạ tầng đa phương thức và kỹ thuật số là điều kiện tiên quyết để hình thành các cụm sản xuất–thương mại–dịch vụ liên quốc gia.

(i) Kết nối giao thông liên vùng và xây dựng ICD

Ba ICD chiến lược sẽ được triển khai tại cụm Lao Bảo–Densavan (Quảng Trị–Savannakhet), Cầu Treo–Namphao (Hà Tĩnh–Bolikhamxay) và Bờ Y–Phoukeua (Quảng Ngãi–Attapeu). Mỗi ICD sẽ gom hàng xuất nhập khẩu, phân phối nội địa và trung chuyển quốc tế, đồng thời kết nối trực tiếp với cảng biển qua các tuyến quốc lộ chiến lược (QL9–Đà Nẵng, QL8–Vũng Áng, QL14/24–Dung Quất/Hải Phòng) và hành lang kinh tế Đông–Tây, Bắc–Nam tiểu vùng Mekong.

(ii) Đồng bộ hóa logistics và chuỗi cung ứng số hóa

Tại các KKT, KCN cần hình thành hệ thống logistics tích hợp bao gồm trung tâm điều phối vận tải, kho lạnh và kho tự động. Việc áp dụng hệ thống quản lý vận tải thông minh (ITS) và số hóa thủ tục hải quan, kiểm dịch sẽ giảm 10–15% chi phí logistics và rút ngắn 30–40% thời gian vận chuyển trước năm 2030. Mạng lưới trung chuyển kết nối trực tiếp với hành lang EWEC, CLV và cảng biển miền Trung sẽ hỗ trợ doanh nghiệp hai nước vận hành chuỗi cung ứng khép kín.

(iii) Thể chế và nguồn lực

Chính phủ Việt Nam (Bộ Xây dựng, Công Thương, Hải quan; UBND các tỉnh biên giới) và Lào (Bộ Công chính & Vận tải, Công Thương; chính quyền địa phương) cần ký khung pháp lý liên chính phủ cho ICD và logistics tích hợp. Vốn ODA, ngân sách trung ương và hợp tác PPP sẽ ưu tiên cho xây dựng ICD và nâng cấp quốc lộ. Đồng thời, liên doanh giữa doanh nghiệp logistics hai nước và đầu tư hạ tầng số sẽ đảm bảo quản lý giao thông, thủ tục hải quan, lưu kho và chia sẻ thông tin thị trường. Khi hoàn thành, hạ tầng đồng bộ sẽ biến KKT, KCN dọc biên giới Việt Nam–Lào thành trung tâm trung chuyển và hợp tác kinh tế trọng điểm của ASEAN.

3.3.4. Huy động nguồn lực tài chính cho phát triển KKT, KCN biên giới

Phát triển hạ tầng kỹ thuật, logistics, đào tạo nhân lực, chuyển đổi số và bảo vệ môi trường tại các KKT, KCN dọc biên giới Việt Nam – Lào đòi hỏi lượng vốn đầu tư rất lớn vượt khả năng cân đối của ngân sách trung ương. Hiện nay, cơ chế huy động tài chính song phương vẫn thiếu định hướng, các dự án liên quốc gia lớn chưa được triển khai đồng bộ, khiến hiệu quả lan tỏa vùng biên còn hạn chế.

Để khắc phục, cần xây dựng một chiến lược huy động vốn đa tầng, trong đó quỹ hợp tác đầu tư song phương — như Quỹ Hạ tầng Biên giới và Quỹ Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ — đóng vai trò mồi để thu hút ODA, vốn vay ưu đãi từ ADB, WB, JICA cùng dòng vốn tư nhân của các tập đoàn ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc. Song song với đó, chính sách PPP cần được hoàn thiện để khuyến khích doanh nghiệp liên doanh đầu tư vào giao thông, ICD, kho bãi, xử lý nước thải, trung tâm logistics, đào tạo nghề và các nền tảng số.

Đồng thời, thành lập Ban Điều phối Phát triển Vùng biên Việt Nam – Lào với đại diện bộ, ngành và chính quyền địa phương hai nước sẽ đảm bảo quy hoạch liên vùng, phê duyệt dự án ưu tiên, giám sát dòng vốn và đánh giá hiệu quả đầu tư. Cơ chế này cũng mở rộng hợp tác quốc tế thông qua kết nối với các sáng kiến tiểu vùng Mekong, CLV và hành lang Đông–Tây, đồng thời tổ chức diễn đàn thường niên thu hút nhà đầu tư khu vực và quốc tế. Sự phối hợp giữa cơ chế điều phối vùng, khung pháp lý rõ ràng cho PPP–ODA–đầu tư tư nhân và minh bạch tài chính – với sự tham gia của ADB, JICA, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Trung ương Lào và các chính quyền địa phương – sẽ hình thành động lực tài chính bền vững, đưa các KKT, KCN biên giới trở thành những cụm kinh tế có khả năng cạnh tranh cao và đóng góp vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực.

3.3.5. Phát triển nguồn nhân lực tại các khu kinh tế – khu công nghiệp biên giới

Thiếu hụt lao động kỹ thuật có trình độ cao là một trong những rào cản chính cản trở sự phát triển bền vững của các KKT, KCN dọc biên giới Việt Nam–Lào. Lực lượng lao động hiện tại chủ yếu là công nhân phổ thông, thiếu kiến thức chuyên môn trong các ngành chế biến nông – lâm sản, logistics, cơ khí, điện và công nghệ thông tin. Việc không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật và quản lý hiện đại làm gia tăng chi phí tuyển dụng, giảm năng suất và sức cạnh tranh của các cụm công nghiệp liên biên giới.

Để khắc phục, cần thiết lập ngay các trung tâm đào tạo nghề “tại chỗ” (On-site Training Centers) trong mỗi KKT, KCN trọng điểm, với chương trình được xây dựng chung giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp. Các ngành ưu tiên bao gồm: công nghiệp chế biến, kỹ thuật cơ khí, vận hành điện – tự động hóa và logistics. Sinh viên sẽ luân phiên giữa giảng đường và xưởng thực hành trong doanh nghiệp, đảm bảo “đào tạo – thực tập – tuyển dụng” khép kín. Cùng lúc, các thiết bị mô phỏng và hệ thống đào tạo từ xa song ngữ (Việt – Lào) cần được đầu tư để mở rộng cơ hội tiếp cận kiến thức cho lao động địa phương.

Song song với đó, hợp tác giáo dục nghề nghiệp xuyên biên giới phải được quy định bằng thỏa thuận song phương, công nhận tín chỉ và chứng chỉ nghề giữa hai nước. Việc trao đổi giảng viên, tổ chức thi tay nghề chung và cấp học bổng cho thanh niên Lào theo học tại Việt Nam sẽ nâng cao chất lượng đội ngũ đào tạo. Đồng thời, các doanh nghiệp trong KKT, KCN cần được khuyến khích tham gia trực tiếp vào thiết kế chương trình và tiếp nhận thực tập sinh, nhằm đảm bảo sản phẩm đào tạo sát với nhu cầu thị trường. Cuối cùng, nguồn lực tài chính cho các hoạt động này nên kết hợp ngân sách nhà nước với ODA và tài trợ từ doanh nghiệp, bảo đảm tính bền vững và linh hoạt cho hệ thống phát triển nguồn nhân lực.

3.3.6. Công nghệ và chuyển đổi số trong quản lý

Trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số là điều kiện tiên quyết để nâng cao hiệu quả quản lý, điều hành và giám sát tại các KKT, KCN dọc biên giới Việt Nam–Lào. Trước thực trạng hạ tầng và năng lực quản lý còn hạn chế, việc số hóa quy trình và chia sẻ dữ liệu xuyên quốc gia không chỉ giảm chi phí vận hành và giao dịch, mà còn tăng tính minh bạch, thu hút đầu tư và tối ưu hóa chuỗi cung ứng, quản lý tài nguyên, môi trường.

(a) Hệ thống quản trị thông minh

Cần triển khai hệ thống Smart Operations tại tất cả KKT, KCN trọng điểm, tích hợp các module quy hoạch và đầu tư, giám sát môi trường – năng lượng, quản lý thuế–đất đai–lao động, cùng cảnh báo an toàn an ninh công nghiệp. Hệ thống này sẽ sử dụng IoT để theo dõi chất lượng không khí, lưu lượng giao thông, tiêu thụ điện – nước; AI để phân tích dữ liệu, dự báo rủi ro và tối ưu hóa hoạt động; GIS để quản lý mặt bằng và quy hoạch hạ tầng.

(b) Nền tảng dữ liệu liên thông và “Một cửa – Hai quốc gia”

Xây dựng cơ sở dữ liệu chung bao gồm quy hoạch, đầu tư, lao động, môi trường và thủ tục hải quan, đồng thời phát triển nền tảng điện tử “Một cửa – Hai quốc gia” cho phép xử lý trực tuyến hồ sơ đầu tư, xuất nhập khẩu và theo dõi tiến độ thông quan. Mục tiêu đến năm 2030 là 100% dữ liệu quản lý được số hóa, 80% thủ tục hành chính thực hiện qua nền tảng điện tử và 100% KKT trọng điểm vận hành hệ thống giám sát môi trường tự động.

Hạ tầng, pháp lý và nguồn lực

Việc triển khai đòi hỏi đầu tư hạ tầng viễn thông, trung tâm dữ liệu và mạng cáp quang công nghiệp, cùng with nền tảng phần mềm quản trị tập trung. Khung pháp lý song phương về chia sẻ dữ liệu, an ninh mạng và bảo vệ thông tin phải được ký kết giữa Bộ Thông tin & Truyền thông (Việt Nam) và Bộ Công nghệ & Truyền thông (Lào), với quy chuẩn kỹ thuật chung. Đồng thời, cần phát triển nguồn nhân lực số thông qua đào tạo cán bộ quản lý KKT, KCN về phân tích dữ liệu và vận hành hệ thống, ưu tiên hợp tác PPP để thu hút doanh nghiệp công nghệ tham gia xây dựng và duy trì cơ sở hạ tầng số. Khi hoàn thiện, chuyển đổi số sẽ là động lực then chốt để hình thành các KKT, KCN thông minh, linh hoạt và minh bạch, sẵn sàng kết nối qua biên giới và hội nhập chuỗi giá trị khu vực.

3.3.7. Liên kết phát triển KKT, KCN và chuỗi giá trị sản xuất–thương mại

Việc thiết lập ba mô hình KKT–KCN liên kết qua biên giới Việt Nam–Lào sẽ tận dụng lợi thế tài nguyên, lao động, hạ tầng và nhu cầu thị trường song phương, đồng thời hình thành các cụm sản xuất đa ngành với chuỗi giá trị khép kín. Mỗi mô hình được bố trí tại cặp cửa khẩu chiến lược và tập trung vào những ngành mũi nhọn phù hợp với điều kiện địa phương, hướng tới đóng vai trò trung tâm tăng trưởng vùng vào năm 2030.

Mô hình Lao Bảo–Densavan (Quảng Trị–Savannakhet) quy hoạch trên 600 ha, đặt trọng tâm vào chế biến gỗ, tinh chế dược liệu, logistics biên giới và năng lượng tái tạo. Với hạ tầng cửa khẩu đồng bộ trên hành lang Đông–Tây (EWEC) và cơ sở kho trung chuyển hai chiều, cụm này sẽ đảm bảo dòng nguyên liệu từ khu vực trung Lào đến miền Trung Việt Nam.

Mô hình Cầu Treo–Nam Phao (Hà Tĩnh–Bolikhamxay), trên diện tích 550 ha, phát triển chế biến nông sản, thực phẩm, cơ khí nhẹ và dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp, kết nối bằng Quốc lộ 8A và các tuyến huyết mạch của Việt Nam, áp dụng cơ chế quản lý và ưu đãi thuế chung để thu hút nguyên liệu và lao động địa phương.

Mô hình Bờ Y–Phoukeua (Quảng Ngãi–Attapeu), với mỗi bên biên 275 ha, chuyên về logistics xuyên biên giới, chế biến nông – lâm sản Tây Nguyên – Nam Lào, năng lượng sinh khối và thương mại biên mậu. Cơ chế linh hoạt sẽ bao gồm thương mại tự do nội khối, ưu đãi thuế và công nhận tiêu chuẩn kỹ thuật-lao động, đồng thời quy hoạch hạ tầng mềm như trạm kiểm dịch, ICD, kho ngoại quan và nền tảng dữ liệu hải quan liên thông.

Chuỗi giá trị sản xuất–thương mại sẽ khởi đầu bằng khai thác nguyên liệu thô tại Lào (gỗ, nông sản, dược liệu, sinh khối), tiếp theo là chế biến sâu tại các KCN công nghệ cao đạt chuẩn môi trường ở Việt Nam, và cuối cùng xuất khẩu sang ASEAN và thị trường thứ ba qua cảng biển miền Trung. Mục tiêu đến 2030 là đạt kim ngạch thương mại trên 2 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân 15–18 %/năm, trong đó các nhóm hàng chủ lực gồm nông sản chế biến (30 %), gỗ (20 %) và điện tử–cơ khí (30 %).

Việc hiện thực hóa chuỗi giá trị này dựa trên khung pháp lý cấp Chính phủ về hợp tác KKT–KCN liên biên giới, chính sách ưu đãi song phương về thuế, đất đai, hải quan và lao động, nâng cấp hạ tầng (QL 8, 9, 14; ICD; logistics vùng biên), phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật tại chỗ, và khuyến khích doanh nghiệp hai nước liên doanh theo chuỗi, ưu tiên các ngành chế biến, logistics và công nghệ sạch.

3.3.8. Xúc tiến thương mại và xây dựng chuỗi sản phẩm đặc thù vùng biên giới

Dù sở hữu vị trí chiến lược và nguồn tài nguyên đa dạng, các KKT, KCN dọc biên giới Việt Nam–Lào vẫn chưa phát huy tối đa vai trò kết nối kinh tế do thiếu chiến lược xúc tiến đầu tư và nhận diện thị trường. Để khắc phục, cần triển khai đồng bộ bốn nhóm giải pháp.

1. Chương trình xúc tiến đầu tư chuyên biệt

Cần xây dựng “Chương trình Đầu tư Biên giới Việt Nam–Lào” do Bộ Công Thương và Bộ Tài chính Việt Nam phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương Lào và chính quyền tỉnh biên giới chủ trì. Chương trình bao gồm: diễn đàn đầu tư Việt Nam–Lào–ASEAN định kỳ; gian hàng giới thiệu dự án tại các hội chợ quốc tế trọng điểm (Bangkok, Viêng Chăn, Singapore, Tokyo); khảo sát thực địa chuyên đề tại Lao Bảo–Densavan, Cầu Treo–Namphao, Bờ Y–Phoukeua; và cơ chế “một cửa xúc tiến song phương” với thông tin đầu tư đa ngôn ngữ (Việt, Lào, Anh), cập nhật thời gian thực.

Ưu tiên chuỗi ngành chủ lực

Xúc tiến sâu vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh: chế biến nông–lâm sản gắn với vùng nguyên liệu liên biên; dịch vụ logistics và kho bãi phục vụ hành lang EWEC; cơ khí nhẹ và năng lượng tái tạo khai thác nguồn lực địa phương; sản phẩm bản địa vùng cao và dược liệu quý kết nối tinh chế–xuất khẩu.

Thương hiệu vùng và truyền thông chiến lược

Phát triển nhận diện chuyên biệt cho mỗi cụm biên giới:

- Lao Bảo–Densavan: “Trung tâm Logistics xuyên A”

- Cầu Treo–Namphao: “Điểm đến Đầu tư Nông nghiệp Công nghệ cao”

- Bờ Y–Phoukeua: “Giao điểm Hợp tác Kinh tế Viễn Đông”

Xây dựng logo, slogan, hồ sơ dự án và video ngắn (2–5 phút), phối hợp với các kênh truyền thông quốc tế uy tín (Nikkei, CNBC Asia, Vietnam Investment Review) và hiệp hội doanh nghiệp đối tác (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc) để mở rộng tầm ảnh hưởng.

Điều kiện đảm bảo

Đảm bảo ngân sách xúc tiến ổn định từ trung ương và địa phương; phát triển đội ngũ chuyên gia xúc tiến giàu kinh nghiệm, thành thạo ngoại ngữ; thiết lập cơ sở dữ liệu đầu tư đa ngôn ngữ, truy cập thời gian thực; và huy động hợp tác công–tư cùng chuyên gia quốc tế để triển khai các chiến dịch quảng bá quy mô lớn với hiệu quả đo lường được.

Kết hợp bốn nhóm giải pháp trên sẽ tạo “đòn bẩy mềm” quan trọng, nâng cao năng lực cạnh tranh, hoàn thiện chuỗi giá trị đặc thù và thu hút dòng vốn chất lượng cao vào KKT, KCN biên giới, góp phần định hình mô hình phát triển kinh tế biên giới bền vững và hội nhập sâu rộng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nghị định số112/2014/NĐ-CPngày 21 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ quy định về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền
  2. Nghị định số: 34/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số112/2014/NĐ-CPngày 21 tháng 11 năm 2014 của chính phủ quy định về quản lý cửa khẩu biên giới đất liền
  3. Nghị định số 35/2022/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế
  4. Nghị định 82/2018/NĐ-CP (22/5/2018) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 82/2009/NĐ-CP, quy định chi tiết về quản lý KCN, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao: chức năng, nhiệm vụ của Ban quản lý, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thủ tục hành chính
  5. Nguyễn Thuấn - Thiên Anh (2025). Quảng Trị muốn xây dựng Lao Bảo trở thành một cực tăng trưởng kinh tế năng động. Truy cập từ: Quảng Trị muốn xây dựng Lao Bảo trở thành một cực tăng trưởng kinh tế năng động - Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới
  6. Minh Trang (2024). Lấy ý kiến về Khu Kinh tế thương mại xuyên biên giới Lao Bảo - Densavan. Truy cập từ: https://baochinhphu.vn/lay-y-kien-ve-khu-kinh-te-thuong-mai-xuyen-bien-gioi-lao-bao-densavan-102240315211210674.htm
  7. Tiến Nhất (2024). Hội thảo “Khu kinh tế thương mại xuyên biên giới chung Lao Bảo - Densavan: Từ ý tưởng đến hiện thực”. Truy cập từ: https://www.quangtri.gov.vn/chi-tiet-tin/-/view-article/1/13848241113627/1710513417016