Kinh nghiệm quốc tế về phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp và bài học rút ra cho Việt Nam

09:31 - 05/11/2024

Trần Thị Thu Hiền[1]

Hình thành các cụm liên kết ngành là xu thế phát triển phổ biến được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng với mục đích nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng cường tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực và toàn cầu. Thực tiễn cho thấy, việc phát triển một mạng lưới cụm liên kết ngành công nghiệp (LKNCN) hữu hiệu sẽ tạo điều kiện giúp tăng năng lực cạnh tranh. Sự gần kề về địa lý tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô, giúp giảm giá thành sản phẩm, tăng cường liên kết, chia sẻ thông tin và các nguồn lực khác. Từ kinh nghiệm của một số quốc gia, sự lớn mạnh của một cụm LKNCN thường kéo theo sự gia tăng và phát triển của các doanh nghiệp trong ngành liên quan và phát triển cụm LKNCN cũng là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển công nghiệp. Cụm LKNCN sẽ dễ dàng thâm nhập được những thị trường mà các doanh nghiệp khó có thể thâm nhập nếu hoạt động riêng lẻ. Việc rút ra bài học cho Việt Nam từ kinh nghiệm của các nước về phát triển mạng lưới cụm LKNCN sẽ giúp nâng cao trình độ công nghệ của quốc gia, phát triển và chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, tạo việc làm và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Từ khóa: Cụm liên kết ngành công nghiệp; Phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp.

1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hàn Quốc trong những năm 1950-1960 có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, rất ít tài nguyên thiên nhiên và bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong vòng hơn 30 năm thực hiện công nghiệp hóa, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp mới (NICs) và là thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Một số ngành công nghiệp đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của Hàn Quốc như điện tử, ô tô, đóng tàu, hóa dầu, dệt may, da giày. Để có được sự phát triển và thành công trong những ngành này một phần là nhờ quá trình hình thành và phát triển các cụm LKNCN ở Hàn Quốc gắn liền với sự thay đổi trong chiến lược phát triển công nghiệp và các vùng lãnh thổ.

Quá trình phát triển công nghiệp tại Hàn Quốc theo các giai đoạn như sau:

- Phát triển các khu công nghiệp xuất khẩu trong thập kỷ 1960: tập trung phát triển công nghiệp nhẹ trong đó tập trung vào ngành may mặc tại Ulsan và Guro.

- Phát triển cực tăng trưởng trong những năm 1970: tập trung phát triển công nghiệp nặng và hóa chất, trọng tâm là ngành sắt thép tại Pohang, máy móc (Changwon). Điện tử (Gumi), Hóa dầu (Ulsan).

- Thập niên 1980, Hàn Quốc đưa ra chính sách phát triển cân bằng tập trung vào các ngành công nghệ, sản xuất nguyên vật liệu và linh kiện tại Bawon Sihwa và Namdong.

- Những năm 1990 và 2000, đổi mới các cụm công nghiệp, chính sách tập trung vào phát triển ngành công nghệ thông tin tại Seoul Digita, Suwon và Ulsan.

 - Giai đoạn sau năm 2000, các chính sách công nghiệp của Hàn Quốc với mục tiêu giảm chênh lệch khu vực, chênh lệch ngành và tăng cường đổi mới công nghiệp. Các ngành công nghiệp mới như phần mềm và công nghệ sinh học được Chính phủ Hàn Quốc có các biện pháp hỗ trợ và phát triển các khu công nghiệp phù hợp với yêu cầu của từng ngành, thúc đẩy các cụm công nghiệp đổi mới và xây dựng các tổ chức nghiên cứu, hoạt động sản xuất, kinh doanh luôn phải chú ý đến việc bảo vệ môi trường.

Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và được điều chỉnh bởi các chính sách công nghiệp. Các cụm LKNCN được hình thành từ rất sớm tại Hàn Quốc. Cụm LKNCN đầu tiên được hình thành tại Ulsan năm 1962, đến năm 1965 có thêm 6 cụm LKNCN được thiết lập ở Seoul và Incheon, đến cuối thập niên 1960 trên đất nước Hàn Quốc có 15 cụm LKNCN được thiết lập.

 Hàn Quốc duy trì chính sách chuyển đổi trọng tâm phát triển công nghiệp từ các ngành công nghiệp nhẹ (trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa) sang phát triển một số ngành công nghiệp nặng như hóa chất, hóa dầu, điện tử, đóng tàu, thiết bị máy móc, luyện kim và việc chuyển đổi này luôn gắn với sự hình thành các cụm LKNCN.

Những năm 1970, một số cụm LKNCN ở Hàn Quốc được hình thành ở các khu vực khác nhau trên đất nước: Cụm LKNCN điện tử tại Gumi, Cụm LKNCN sản xuất máy móc thiết bị tại Changwon, Cụm LKNCN luyện kim đen tại Pohang, Cụm LKNCN hóa chất, hóa dầu tại Ulsan, Cụm LKNCN đóng tàu tại Geoje. Trong thập niên này, Hàn Quốc hình thành cụm liên kết tập trung vào hoạt động nghiên cứu dưới hình thức công viên khoa học với các trung tâm nghiên cứu và phát triển R&D bên cạnh các cụm LKNCN, các hoạt động nghiên cứu này do Chính phủ Hàn Quốc tài trợ nhằm phát triển nguồn lực khoa học và công nghệ cho phát triển kinh tế.

Những năm 1990, Hàn Quốc hoàn thiện các cụm LKNCN, các loại cụm liên kết lấy hoạt động R&D làm trung tâm tiếp tục được phát triển nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ. Từ năm 2000 đến nay, các cụm LKNCN được tiếp tục phát triển một cách hoàn chỉnh hơn theo những chương trình và dự án do Chính phủ thiết lập và chỉ đạo thực hiện. Đến cuối năm 2009, hoạt động của các doanh nghiệp trong các cụm LKNCN đã đóng góp hơn 70% kim ngạch xuất khẩu, 62% sản lượng và hơn 42% việc làm trong các ngành sản xuất công nghiệp của Hàn Quốc. Sự hình thành và phát triển cụm LKNCN đã đóng góp vào phát triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế của Hàn Quốc.

Các yếu tố dẫn đến sự thành công trong quá trình phát triển cụm LKNCN ở Hàn Quốc:

- Vai trò của chính quyền địa phương trong việc hình thành và phát triển cụm LKNCN hướng tới thực hiện yêu cầu đổi mới và sáng tạo trên cơ sở liên kết hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền, các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu và các trường đại học.

- Thúc đẩy phát triển sản xuất nội địa nhanh và bền vững trên cơ sở lựa chọn ngành công nghiệp chiến lược phù hợp với khả năng hỗ trợ và phát triển của từng khu vực, địa phương. Sự lựa chọn này là cơ sở để ban hành và thực thi các chính sách hỗ trợ phù hợp.

- Nghiên cứu và phát triển (R&D) bảo đảm nguồn nhân lực cho các ngành công nghiệp được lựa chọn ở từng khu vực. Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích đẩy mạnh sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp công nghiệp với các trường đại học và các viện nghiên cứu trong khu vực, địa phương có cụm LKNCN.

Hàn Quốc đã xây dựng chính sách cụm liên kết ngành công nghiệp có những đặc trưng sau:

- Thứ nhất, các chính sách giúp việc kết nối giữa doanh nghiệp và các đơn vị nghiên cứu, mang tính toàn diện nhằm đạt được những điều kiện tối ưu tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.

- Thứ hai, các chính sách tập trung vào việc xây dựng mạng lưới, không tập trung vào các thành phần riêng lẻ. Việc tăng cường mạng lưới liên kết thông qua sự hợp tác của các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.

- Thứ ba, các chính sách khuyến khích sự tham gia của các thành phần từ trung ương tới địa phương và khu vực tư nhân. Sự tham gia của khu vực tư nhân là yếu tố quan trọng trong chính sách về cụm liên kết công nghiệp tại Hàn Quốc.

- Thứ tư, Hàn Quốc phát triển cụm liên kết sáng tạo (Innovative Clusters) cùng với Chiến lược phát triển cân đối quốc gia nhằm gắn kết xã hội với khả năng cạnh tranh quốc gia. Phát triển các cụm liên kết sáng tạo là một phần quan trọng của Chiến lược phát triển cân đối quốc gia. Trong đó, đẩy mạnh việc chuyển đổi các tổ hợp công nghiệp thành cụm liên kết sáng tạo, nâng cao khả năng cạnh tranh. Các cụm liên kết này có vai trò thúc đẩy nền kinh tế Hàn Quốc phát triển theo hướng sáng tạo, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho Hàn Quốc.

2. Kinh nghiệm của Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia đã thành công trong xây dựng cụm công nghiệp và đưa ra các chính sách phát triển hiệu quả cụm LKNCN. Từ năm 2000, Nhật Bản xây dựng và triển khai chính sách cụm ngành công nghiệp một cách hệ thống với hơn 60 cụm LKNCN tập trung vào các ngành công nghiệp mũi nhọn với nhiều ngành công nghiệp hỗ trợ.

Bộ Kinh tế Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản phân tích bốn bước hình thành cụm ngành công nghiệp như sau: (1) Phân tích đặc điểm của địa phương; (2) Xác định mạng lưới có thể thiết lập trong phạm vi địa phương; (3) mở rộng phạm vi mạng lưới, và thúc đẩy tập trung công nghiệp và đổi mới.

Bên cạnh đó, ba nhóm chính sách mà Bộ Kinh tế Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đã thực hiện hiệu quả là: (1) Xây dựng mạng lưới; (2) Hỗ trợ doanh nghiệp về R&D, phát triển thị trường, quản lý, đào tạo và (3) Thúc đẩy liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với các tổ chức tài chính, các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu. Nhật Bản là quốc gia đi đầu trong xây dựng hệ thống liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Từ những năm đầu của thời kỳ Minh Trị cho đến sau Chiến tranh thế giới thứ hai và đến những năm 1970, sự phát triển của Nhật Bản luôn được rất nhiều nước đang phát triển học tập kinh nghiệm với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và được chuyển giao công nghệ tốt nhất. Sau đó, nhu cầu về phát triển công nghệ cao ở Nhật Bản đã chuyển sang tập trung vào các nhu cầu trong nước. Thay vì các chính sách phát triển công nghiệp, với hàng loạt các tác động tiêu cực như dân số quá tải, ô nhiễm môi trường thì các cụm LKNCN đã được Chính phủ Nhật Bản quan tâm và năm 1972 Đạo luật Xúc tiến Di chuyển Khu công nghiệp đã ra đời để tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho sự hình thành và phát triển các cụm LKNCN tại Nhật Bản sau này. Chính phủ Nhật Bản đã ban hành các đạo luật và chính sách nhằm thu hút các doanh nghiệp, di chuyển nguồn lao động đến các khu vực ít đô thị hóa hơn, tập trung tạo thành các khu công nghiệp tách biệt nằm bên cạnh các khu kinh tế.

Để tránh tình trạng nền kinh tế suy yếu dần và thúc đẩy các lĩnh vực ngành nghề, chính phủ Nhật Bản tập trung hỗ trợ toàn diện các ngành kinh doanh mới trong bối cảnh toàn cầu hóa nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho các ngành này, trong đó có chương trình phát triển cụm LKNCN. Nhật Bản đã tạo mạng lưới vững chắc để hình thành cụm công nghiệp trong các khu vực, với mục tiêu nhằm phát triển các ngành sản xuất, kinh doanh quan trọng và các ngành kinh doanh mới, tăng cường liên doanh liên kết trong nghiên cứu phát triển với các Viện nghiên cứu và các trường đại học.

Quá trình phát triển các cụm LKNCN của Nhật Bản chia thành các giai đoạn như sau:

- Giai đoạn đầu tiên từ 2001- 2006: Nhật Bản lúc đó đang là một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, là một trong những quốc gia phát triển mạnh mẽ trên thế giới và là một thị trường tiềm năng với GDP 4,8 triệu tỉ USD, tỷ lệ lạm phát là 0,8%/năm.

Sau giai đoạn nền kinh tế suy thoái vào cuối thế kỷ 20, Nhật Bản đã đưa ra các chính sách thay đổi với mục tiêu đưa nền kinh tế quay trở lại thời kỳ phát triển tốt nhất, trong đó chính sách phát triển cụm LKNCN là yếu tố tác động cốt lõi. Từ đó, Nhật Bản đã đưa đất nước phát triển, đạt được nhiều thành tựu trong phát triển cụm LKNCN nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung. Chính sách phát triển liên kết ngành tại Nhật Bản đạt được mục tiêu đã đề ra với nhiều kinh nghiệm thực tiễn giá trị. Trong thời kỳ này, Nhật Bản đã thành lập các Văn phòng khu vực tại khắp các địa phương, triển khai tổng cộng 19 dự án trên toàn nước Nhật, hình thành được mạng lưới rộng khắp cả nước liên kết các doanh nghiệp, các trường đại học và các tổ chức chính phủ với tổng số 6.100 các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 250 trường đại học. Từ đó, Nhật Bản đã hình thành một mạng lưới giúp các thành viên trao đổi thông tin nhanh chóng, tiện dụng (networks where each face is visible) tạo nên nền tảng của các cụm LKNCN. Dựa trên các mạng lưới đã xây dựng được, chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào liên kết ngành, mở rộng thêm các công ty mới, hỗ trợ các doanh nghiệp muốn liên kết, liên doanh, tận dụng được các nguồn lực trí tuệ từ phía các trường đại học và các tổ chức khác.

- Giai đoạn từ 2006 đến 2011: Sau giai đoạn đầu tiên nỗ lực hình thành mạng lưới gồm doanh nghiệp, trường đại học và các cơ quan chính phủ, đây là nền tảng cơ sở của các cụm. Cụm LKNCN tiếp tục phát triển:

+ Tổ chức lại các dự án cụm LKNCN giai đoạn một: Giai đoạn tiếp theo là tập trung tìm kiếm các đơn vị tham gia vào cụm LKNCN, hình thành các mạng lưới sơ khai ban đầu, và tránh những khu vực, những ngành công nghiệp có tính hạn chế, bao gồm cả những dự án thiết kế cho khu vực quá lớn và quá dàn trải về ngành công nghiệp và doanh nghiệp.

 Sau khi giai đoạn một kết thúc và bắt đầu giai đoạn hai sẽ tiến hành đánh giá kết quả: Những mạng lưới nào đã hình thành, bao nhiêu dự án đã hoạt động tốt. Ngoài ra, dựa trên điều kiện thực tế của ngành công nghiệp, công nghệ, nhu cầu công nghiệp, tiềm năng của nền kinh tế và công nghiệp, vị thế hiện tại của khu vực, một số dự án có thể bị bãi bỏ, tích hợp hoặc sửa đổi.

+ Tiếp nhận, sửa đổi, bãi bỏ các dự án trong giai đoạn hai: hoạch định, sửa đổi linh hoạt kế hoạch qua từng quy trình dự án, phù hợp với các thay đổi trong nền kinh tế, xu hướng phát triển công nghiệp.

- Giai đoạn 2011 - 2020: Việc triển khai phát triển các cụm LKNCN của Nhật Bản bắt đầu chậm hơn một số quốc gia khác và có đặc điểm riêng. Chính phủ Nhật Bản đưa ra các chính sách tập trung phát triển khu vực, trong khi quá trình tạo ra hệ thống tương tác giữa các khu vực tư nhân - viện nghiên cứu - cơ quan chính phủ vẫn chưa được hoàn thiện và phát triển. Vẫn tồn tại một số rào cản về thể chế như khung cơ sở pháp lý chưa được xây dựng đầy đủ.

3. Kinh nghiệm của Malaysia

Phát triển các cụm LKNCN ở Malaysia gọi là Iskandar Malaysia. Iskanda Malaysia nhằm mục đích phát triển một vùng lãnh thổ trở nên có sức cạnh tranh, năng động và có tính toàn cầu. Quá trình phát triển các cụm LKNCN được bắt đầu từ kế hoạch phát triển Malaysia lần thứ 9. Sau một quá trình thực hiện, Chính phủ Malaysia đã tổng kết và xây dựng kế hoạch tiếp tục phát triển Iskanda Malaysia trong kế hoạch tổng thể lần thứ 10.

Malaysia phát triển nền kinh tế thị trường nhưng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế Malaysia. Chính phủ Malaysia luôn xây dựng kế hoạch trong quản lý kinh tế với tầm nhìn, 30 năm, kế hoạch trong 10 năm, 5 năm, và kế hoạch cụ thể hàng năm. Trong đó quy hoạch phát triển vùng lãnh thổ là một trong những nội dung quan trọng của các kế hoạch triển vọng 10 năm và kế hoạch quốc gia 5 năm. Quy hoạch này hướng vào phát triển liên vùng một cách cân đối hơn và xác định địa bàn phát triển Iskandar Malaysia ở Bang Johor, vùng này gồm phần phía Nam của bang Johor - từ Mukim thuộc Serkat về phía Tây, đến Pasir Gudang về phía Đông, từ Bắc Kulai đến Nam Johor Bahru.

Hiện nay, ở Malaysia có 9 cụm liên kết ngành bao gồm 6 lĩnh vực: tư vấn tài chính; sáng chế, sáng tạo; logistics; du lịch; giáo dục; y tế; và 3 lĩnh vực công nghiệp chế tác: điện và điện tử, hóa chất và hóa dầu; chế biến lương thực và thực phẩm. Nâng cấp và phát triển cụm liên kết ngành đang được Chính phủ Malaysia chú trọng và xem như một khâu đột phá trong chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đất nước. Phát triển cụm liên kết ngành theo hướng nâng cao tính gắn kết của mạng lưới trong mỗi cụm liên kết ngành để tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức trong cụm có thể gắn kết, phối hợp với nhau một cách chặt chẽ và hiệu quả nhất.

4. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Chính sách cải cách mở của ở Trung Quốc thực hiện từ năm 1978, hiện nay Trung Quốc đã trở thành một quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ nhất thế giới với GDP đứng thứ 2 sau Mỹ. Trung Quốc có nền công nghiệp phát triển nhanh và mạnh trong thời gian qua, hàng hóa công nghiệp được xuất khẩu toàn thế giới và có sức cạnh tranh cao. Trung Quốc phát triển các cụm LKNCN với các hình thức khác nhau, đây là yếu tố góp phần vào sự thành công trong phát triển công nghiệp.

Từ khi thực hiện cải cách mở cửa, Trung Quốc đã phát triển rất nhiều cụm LKNCN trong các ngành công nghiệp chủ chốt. Trung Quốc đã và đang tập trung phát triển 3 loại hình cụm LKNCN là: Cụm LKNCN cho các ngành có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao (công nghệ điện tử viễn thông và công nghệ thông tin; Cụm LKNCN cho các ngành thông thường, những ngành thâm dụng vốn kết hợp với thâm dụng kỹ thuật (chế tạo xe hơi); và cụm LKNCN cho các ngành truyền thống (da giày, dệt, may,…). Trên thực tế, sự lớn mạnh của một cụm LKNCN thường kéo theo sự gia tăng và phát triển của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ.

Một số cụm liên kết ngành công nghiệp đã phát triển rất mạnh ở Trung Quốc như cụm ngành công nghiệp ô tô với hệ thống các doanh nghiệp lắp ráp ô tô, các nhà cung cấp linh kiện, các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trung tâm sáng tạo… Tỉnh Quảng Đông có cụm ngành công nghiệp được thiết lập dựa trên các hãng sản xuất ô tô lớn của Nhật Bản gồm Nissan, Honda và Toyota. Cụm ngành công nghiệp ô tô bắt đầu ở thành phố Quảng Châu, đã lan sang các thành phố Phosan, Dunguan, và hiện nay bao phủ toàn bộ tỉnh Quảng Đông. Các doanh nghiệp chủ đạo trong cụm là Nissan, Honda và Toyota có nhà máy tại Quảng Châu. Nissan và doanh nghiệp sản xuất ô tô lớn nhất Trung Quốc liên doanh sản xuất ô tô Sunny và Tiida. Các định hướng chính của cụm ngành công nghiệp này là: thiết lập liên kết giữa các thành viên tham gia trong cụm ngành công nghiệp; thúc đẩy phát triển ngành ô tô; tăng năng lực cạnh tranh cho các nhà cung cấp nhờ hấp thu được kiến thức khi thực hiện các dự án liên kết; tăng năng lực cạnh tranh khi tiếp cận thị trường quốc tế; thực hiện hoạt động đổi mới và sáng tạo. Cụm ngành công nghiệp ô tô Quảng Châu đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển tốt, cung cấp số lượng rất lớn linh kiện, nguyên vật liệu cho ngành sản xuất ô tô.

Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm sự thành công trong quá trình hình thành và phát triển các cụm LKNCN. Tại Trung Quốc, Nhà nước có vai trò đối với phát triển cụm LKNCN như sau: (1) Hình thành và thực thi chính sách cấp quốc gia về phát triển cụm LKNCN; (2) Phát huy vai trò chủ động và tích cực của chính quyền cấp tỉnh và thành phố. Hiện nay, cần phải có sự điều chỉnh về phối hợp hàng dọc giữa Trung ương và địa phương, giữa quản lý theo ngành và quản lý theo khu vực địa phương; sự phối hợp hàng ngang giữa các vùng, các địa phương với nhau.

5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp

Hiện nay, Việt Nam chưa thực sự hình thành cụm liên kết ngành mà mới chỉ xuất hiện hình thái ban đầu ở một số ngành lĩnh vực đáp ứng nhu cầu cần thiết của thị trường như ngành dệt may, da giày, điện tử, ô tô… Việt Nam thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp đã tác động tới quy hoạch phát triển của các địa phương trong đó có phát triển cụm LKNCN.

Như vậy cần phải xây dựng một mô hình phát triển cụm LKNCN phù hợp và hiệu quả cho Việt Nam. Từ những kinh nghiệm về phát triển cụm LKNCN của các nước, Việt Nam cần rút ra những bài học kinh nghiệm trong phát triển cụm LKNCN như sau:

Thứ nhất, Nhà nước có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc hình thành và phát triển các cụm LKNCN. Việc hình thành và phát triển các cụm LKNCN ở các nước trên đều xuất phát từ sự chỉ đạo của Nhà nước. Nhà nước bằng các cơ chế chính sách tạo ra một môi trường thuận lợi với cơ sở hạ tầng phù hợp cho các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực liên kết với nhau. Việt Nam cần hỗ trợ tốt nhất cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư, tạo ra một thị trường cạnh tranh bình đẳng ở mọi lĩnh vực trong sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện để bảo đảm tính hiệu quả và bền vững mối liên kết giữa các doanh nghiệp trên một địa bàn, khu vực có đặt cụm LKNCN.

Thứ hai, để phát triển có hiệu quả và bền vững nền công nghiệp của đất nước và của mỗi vùng, mỗi địa phương cần nhận thức đúng vai trò của cụm LKNCN. Cần tạo lập môi trường hoạt động hiệu quả cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong cụm LKNCN. Ngoài ra, cần chú trọng đến việc tuyên truyền, phổ biến đến các đối tượng liên quan về tầm quan trọng của cụm LKNCN trong định hướng phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp của từng địa phương và cả nước.

Thứ ba, việc phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương trong việc hình thành và phát triển các cụm LKNCN phải có sự chỉ đạo và thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương trong việc kết nối giữa liên kết vùng và các cụm LKNCN, sự kết nối giữa các cụm LKNCN. Từ đó thúc đẩy quan hệ liên kết giữa các địa phương trong một vùng và giữa các vùng trong cả nước. Trong quá trình phát triển cụm LKNCN, cần phải có sự tham gia và hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị và chuỗi sản xuất toàn cầu.

Thứ tư, chính sách phát triển cụm LKNCN cần có sự gắn kết với chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ. Các nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Trung Quốc đều hết sức quan tâm đến việc phát triển công nghiệp hỗ trợ và có nền công nghiệp hỗ trợ phát triển. Trong quá trình công nghiệp hóa, phát triển công nghiệp hỗ trợ luôn được coi trọng nhằm tạo nền tảng cho sự phát triển công nghiệp của đất nước bền vững và hiệu quả. Phát triển công nghiệp hỗ trợ luôn gắn với phát triển cụm LKNCN.

Thứ năm, thực hiện tốt và có hiệu quả công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng. Phát triển cụm liên kết ngành có thế mạnh trong vùng có thể giúp khai thác các tiềm năng phát triển, có thể liên kết đa ngành, tăng khả năng sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, của vùng và cả đất nước.

Thứ sáu, xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất trong các cụm để hình thành nên mạng lưới sản xuất hoàn chỉnh và khép kín. Các doanh nghiệp, tổ chức sản xuất hình thành được mạng lưới chia sẻ chung về khoa học công nghệ, kĩ thuật, giúp cho việc truyền đạt kinh nghiệm, kĩ thuật, mô phỏng và cải tiến công nghệ. Kinh nghiệm cho thấy ở Trung Quốc, nhiều cụm ngành công nghiệp đã thu được nhiều kinh nghiệm, ích lợi về công nghệ, kỹ năng từ các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn hoặc từ các doanh nghiệp FDI. Những doanh nghiệp này đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp kĩ thuật ban đầu tạo ra kênh lan tỏa về công nghệ, kỹ thuật, các yếu tố khác vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của các cụm ngành.

Thứ bảy, Tận dụng tối đa các hiệu ứng tích cực từ sự hình thành của cụm ngành. Cụm LKNCN không phải một tập hợp rời rạc của các cơ sở sản xuất trong cùng ngành hoặc liên ngành. Đó là một chỉnh thể hữu cơ với những liên kết đan xen giữa các tổ chức sản xuất với các tổ chức phi sản xuất. Nếu mối liên kết giữa các tổ chức sản xuất là biểu hiện chính của cụm thì sự liên kết giữa các tổ chức này với các tổ chức phi sản xuất như các trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức tài chính, logistics... rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ mạng lưới cụm LKNCN.

Thứ tám, xây dựng và hình thành cụm LKNCN tại các vùng hướng đến mục tiêu phát triển ngành, tăng quy mô sản xuất, có thương hiệu và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững. Phát triển cụm LKNCN theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường, đóng góp vào phát triển xã hội. Từ kinh nghiệm của các nước cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sản xuất tại các cụm LKNCN, tuy nhiên cần bảo vệ môi trường, và đảm bảo an toàn vệ sinh. Thu hút đầu tư FDI vào phát triển cụm LKNCN, trong đó cần tập trung đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao và nâng cao năng lực quản lý, sản xuất trong các cụm.

Từ kinh nghiệm các nước, việc phát triển các cụm công nghiệp, khu công nghiệp, khu kinh tế riêng lẻ chưa thực sự phát huy hết hiệu quả mà phải hình thành xây dựng các cụm liên kết ngành công nghiệp. Khi các doanh nghiệp trong một khu vực địa lý nhất định như các vùng trên cả nước (không cố định trong một khu vực cụ thể, có giới hạn) có sự liên kết với nhau trong sản xuất, kinh doanh sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh vùng , quốc gia. Nhiều nước trên thế giới tiếp tục triển khai các chính sách phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp. Việt Nam tiếp tục triển khai các chính sách liên quan đến phát triển các cụm liên kết ngành công nghiệp. Như vậy, ngoài kinh nghiệm và bài học rút ra cho Việt Nam trong phát triển cụm LKNCN, chúng ta cần phải có nhận thức đầy đủ, đồng bộ về sự cần thiết phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp; xây dựng thể chế phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp, tiếp tục xây dựng chính sách phát triển cụm ngành liên kết công nghiệp cùng với sự tăng cường liên kết vùng, địa phương trong cả nước./.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Phạm Thị Huyền (2011), Chính sách phát triển cụm ngành công nghiệp ở Hàn Quốc, Kỷ yếu Hội thảo hợp tác phát triển kinh tế Việt Nam - Hàn Quốc, Đại học Kinh tế Quốc dân.
  2. Nguyễn Thu Thuỷ, Nguyễn Hồng Vân (2021), Kinh nghiệm quốc tế về phát triển các cụm liên kết công nghiệp và bài học cho Việt Nam
  3. Phạm Sỹ Thành (2011), Thực trạng và kinh nghiệm phát triển cụm liên kết ngành ở Trung Quốc, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 6
  4. Akifumi Kuchiki, Masatsugu Tsuji (2011), Industrial Clusters, Upgrading and Innovation in East Asia, Open University, Kobe International University, Japan.
  5. Huang, M. (2012), ‘Innovation in Chinese cluster-based leading enterprises’, China Economic Review, 23(3), 613-625.

 

 

 

[1] Tiến sĩ, Phó trưởng phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương