Kinh nghiệm của một số quốc gia trong châu lục và khu vực về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong xuất khẩu và bài học vận dụng cho Việt Nam

13:10 - 24/11/2023

Đỗ Tuấn Linh

Phòng Nghiên cứu và dự báo thị trường

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Bảo hộ sở hữu trí tuệ ngày càng quan trọng và gặp nhiều thách thức trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là khi Việt Nam chủ động, tích cực thực hiện các cam kết, thực các FTA quan trọng trong khu vực cũng như trên thế giới. Các hành vi xâm phạm về sỡ hữu trí tuệ đang diễn ra ngày càng nhanh hơn, tinh vi hơn, vượt qua cả ranh giới về địa lý và thay đổi hình thức từ môi trường kinh doanh truyền thống lên môi trường thương mại điện tử và internet. Vì vậy việc nghiên cứu từ cách làm thành công của các quốc gia trong khu vực về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong xuất khẩu sẽ giúp chúng ta có những giải pháp hiệu quả hơn để hỗ trợ doanh nghiệp Việt trong vấn đề quan trọng này.

1. Kinh nghiệm Hàn Quốc

Hàn Quốc là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ rất phát triển, tiệm cận với các quy tắc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO).

Đối với nhãn hiệu thương mại, việc bảo hộ được thực hiện theo quy định của Luật Nhãn hiệu thương mại. Riêng đối với các thương hiệu nổi tiếng, việc bảo hộ được thực hiện theo quy định tại Luật bảo hộ bí mật thương mại và ngăn ngừa hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo quy định của Luật Nhãn hiệu Hàn Quốc, một nhãn hiệu đã đăng ký có thể bị chấm dứt hiệu lực nếu nó không được sử dụng tại Hàn Quốc trong thời gian ba năm liên tiếp. Theo đó, không chỉ các bên có quyền lợi liên quan mà là bất kể cá nhân/pháp nhân/bên liên quan nào, nếu muốn, đều có thể nộp yêu cầu chấm dứt hiệu lực một nhãn hiệu đã đăng ký trên cơ sở không được sử dụng trong thời gian là ba năm liên tiếp tại Hàn Quốc.

Ở một nước mạnh về công nghệ thông tin như Hàn Quốc, Cục sáng chế hay toà án đều thừa nhận khả năng cấp văn bằng bảo hộ sáng chế liên quan đến giải pháp kinh doanh liên quan đến internet. Việc nộp đơn và đăng ký sáng chế về giải pháp kinh doanh đang được thực hiện một cách dễ dàng. Cục sáng chế cũng đã chuẩn bị xây dựng tiêu chuẩn thẩm tra phát minh liên quan đến máy tính từ năm 2000 và đã thẩm tra sáng chế giải pháp kinh doanh cho đến giờ. Cục cũng đã chuẩn bị những nguyên tắc cơ sở về thẩm tra sáng chế liên quan đến internet và nguyên tắc thẩm tra sáng chế liên quan đến giao dịch điện tử và thừa nhận một cách tích cực sáng chế phương pháp kinh doanh. Hơn thế nữa, bằng việc đưa các phát minh liên quan đến giao dịch điện tử trong sáng chế giải pháp kinh doanh vào đối tượng thẩm định ưu tiên, Hàn Quốc đang hướng đến sự quyền lợi hoá việc đăng ký liên quan đến internet.

Song song với việc thúc đẩy đăng ký sáng chế, từ năm 2019, Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành một số chính sách hỗ trợ thương mại hóa sáng chế, ví dụ như Chương trình hỗ trợ sản xuất sản phẩm mẫu cho những sáng chế/giải pháp hữu ích có tiềm năng thương mại hóa cao (là những sáng chế/giải pháp hữu ích được đánh giá là vượt trội cả về công nghệ lẫn tiềm năng thương mại). Chương trình này được triển khai trong giai đoạn từ 1982 - 2011, những sáng chế/giải pháp hữu ích được chọn tham gia chương trình sẽ được hỗ trợ thiết kế 3D và sản xuất sản phẩm mẫu trước khi đưa vào sản xuất hàng loạt.

Đối tượng được phép tham gia Chương trình là nhà sáng chế cá nhân (có kế hoạch thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp) hoặc doanh nghiệp xuất khẩu có bằng sáng chế/giải pháp hữu ích được đánh giá là vượt trội cả về mặt công nghệ lẫn thương mại nhưng không đủ tài chính để sản xuất sản phẩm mẫu. Ngoài ra, nhà sáng chế cá nhân và doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được ưu tiên hơn nếu đáp ứng được một trong những điều kiện sau: (i) doanh nghiệp có cơ chế chi thưởng cho nhân viên là tác giả của sáng chế/giải pháp hữu ích mà doanh nghiệp được hưởng lợi từ việc áp dụng sáng chế/giải pháp hữu ích này; (ii) Nhà sáng chế cá nhân là người có công, người khuyết tật, phụ nữ; (iii) Nhà sáng chế cá nhân hoặc doanh nghiệp xuất khẩu đã được nhận hỗ trợ từ các chương trình của Cơ quan Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc (KIPO).

Chương trình được hỗ trợ 70% đến 90% chi phí từ nguồn ngân sách sản xuất sản phẩm mẫu, 10% đến 30% chi phí còn lại do ứng viên tự chi trả. Đối với những sáng chế phức tạp mà việc xây dựng sản phẩm mẫu đòi hỏi một nhóm nhà cung cấp dịch vụ, Chương trình sẽ lựa chọn các nhà cung cấp từ nhiều lĩnh vực khác nhau (máy móc, điện, điện tử, hóa học, sinh học, v.v.) theo công nghệ cần thiết để sản xuất sản phẩm mẫu. Do việc thanh toán được trả trực tiếp cho nhà cung cấp dịch vụ vì vậy điều này cho phép minh bạch hóa việc chi tiêu ngân sách để thuận lợi cho quá trình vận hành và quản lý Chương trình…

2. Kinh nghiệm Thái Lan

Thái Lan là một trong những quốc gia Châu Á triển khai mạnh mẽ và hiệu quả các chiến dịch quảng bá đặc sản địa phương ra nước ngoài. Tương tự như các quốc gia đang phát triển khác ở Châu Á, các hoạt động quảng bá đặc sản địa phương được thực hiện với sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại và sở hữu trí tuệ. Cơ quan sở hữu trí tuệ Thái Lan (DIP) là đơn vị trực thuộc Bộ Thương mại Thái Lan, do đó công tác tổ chức các chiến dịch quảng bá đặc sản địa phương gắn với quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài được tiến hành khá thuận lợi với quy mô lớn.

Thái Lan áp dụng chính sách ưu tiên xây dựng và phát triển hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho đặc sản địa phương. Mục tiêu tối thiểu mỗi tỉnh có 1 chỉ dẫn địa lý được bảo hộ. Tính đến tháng 12/2020, trong số các nước ASEAN, Thái Lan đang là quốc gia có số chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nhiều nhất (137 chỉ dẫn địa lý thuộc 76 tỉnh/thành phố). Thái Lan xây dựng biểu tượng chỉ dẫn địa lý quốc gia để thống nhất sử dụng cho các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.

Hàng năm DIP tổ chức Hội chợ Chỉ dẫn địa lý (GI Market) để các địa phương, doanh nghiệp, tổ chức giới thiệu, quảng bá sản phẩm của mình. Bên cạnh đó, DIP phối hợp với Cục Thương mại quốc tế Thái Lan tổ chức Triển lãm thương mại quốc tế (THAIFEX) mời các nhà nhập khẩu nước ngoài đến tham quan và nghe giới thiệu về các đặc sản địa phương được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. DIP cũng tổ chức các buổi hội thảo dành cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đặc sản địa phương trong đó mời các diễn giả là chuyên gia, doanh nhân nước ngoài đến nói chuyện, chia sẻ kinh nghiệm. Ngoài ra, DIP cũng trực tiếp làm việc với các siêu thị lớn của Thái Lan để mở ra các kênh tiêu thụ mới, ổn định cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ.

Để nâng cao hiệu quả quảng bá đặc sản địa phương ra nước ngoài, Thái Lan đặc biệt quan tâm đầu tư thiết kế, in ấn tem, nhãn, bao bì sản phẩm và hệ thống công cụ quảng bá (tờ rơi, sách, báo, chương trình quảng cáo…). Các ấn phẩm quảng cáo này đều được biên soạn và phát hành bằng tiếng Anh.

3. Kinh nghiệm Indonesia

Indonesia cũng là một trong những quốc gia đã triển khai mạnh mẽ và hiệu quả các hoạt động quảng bá đặc sản địa phương ra nước ngoài thông qua việc thiết lập và phát triển hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

Các hoạt động quảng bá đặc sản địa phương ra nước ngoài chủ yếu do Cơ quan sở hữu trí tuệ Indonesia thực hiện. Indonesia cũng đã xây dựng biểu tượng chỉ dẫn địa lý quốc gia để thống nhất sử dụng cho các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông, quảng bá sản phẩm.

Là quốc gia xuất khẩu cà phê đứng thứ 4 thế giới, Indonesia tập trung xây dựng hình ảnh và triển khai các chiến dịch quảng bá sản phẩm cà phê mang chỉ dẫn địa lý ra nước ngoài thông qua các hình thức như: tổ chức hội chợ, triển lãm, sự kiện truyền thông xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế; xuất bản các ấn phẩm truyền thông, quảng bá sản phẩm (hình ảnh sản phẩm luôn được gắn liền với hình ảnh vùng địa danh).

Đặc biệt, Indonesia rất quan tâm đến việc đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại các thị trường lớn có nhập khẩu cà phê Indonesia như: Châu Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc… nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các nhà sản xuất trong nước, tránh tình trạng quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.

4. Bài học vận dụng cho Việt Nam

Đến thời điểm này, các FTA mà Việt Nam đã và đang đàm phán ký kết, đặc biệt là các FTA thế hệ mới đã nâng cao mức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ hơn so với chuẩn mực quốc tế phổ biến hiện nay. Việc nghiên cứu những bài học kinh nghiệm ở một số quốc gia phát triển trong châu lục và khu vực có hệ thống tiên tiến về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong xuất khẩu đã gợi mở cho Việt Nam một số bài học có thể vận dụng:

Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng một chính sách tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp thương mại hóa sáng chế, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu có lợi thế về thời gian khi tiếp cận thị trường nước ngoài. Thông qua kinh nghiệm của Hàn Quốc là Nhà nước đơn giản hóa việc cấp và bảo hộ sáng chế dựa trên hệ thống công nghệ thông tin hiện đại và hỗ trợ 70%-90% kinh phí cho các nhà sáng chế, doanh nghiệp có sở hữu bằng sáng chế có tiềm năng thương mại hóa cao tạo ra được sản phẩm mẫu thử nghiệm để từ đó có thể giới thiệu đến người mua tiềm năng (có thể là tổ chức công hoặc các doanh nghiệp khác có nhu cầu mua, ứng dụng, khai thác sáng chế). Người mua tiềm năng tiếp cận sản phẩm mẫu, đánh giá tính khả thi, tính phù hợp, nếu được sẽ đặt mua hay thương mại hóa sáng chế đó. Có nghĩa trước khi kết nối với người mua tiềm năng, nhà sáng chế, doanh nghiệp đã phải có sản phẩm mẫu trong tay và để làm bước này thì Nhà nước sẽ hỗ trợ. Ngoài ra, Nhà nước có thể có cơ chế cho doanh nghiệp có khả năng tiếp cận các nguồn vốn tài trợ cho việc sản xuất kinh doanh bằng cách cho phép các ngân hàng, các tổ chức tài chính hay các nhà đầu tư tiềm năng chấp nhận các sáng chế, quyền sở hữu trí tuệ (định lượng doanh thu trong tương lai có thể có được khi được thương mại hóa) của doanh nghiệp như một hình thức đảm bảo cho khoản vay của mình.

Thứ hai, sở hữu trí tuệ là yếu tố quan trọng quyết định tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nền kinh tế và quốc gia. Do đó, doanh nghiệp cần chủ động bảo vệ tài sản vô hình của mình, nhất là khi tham gia xuất khẩu sản phẩm vào các thị trường quốc tế phải xác lập quyền của mình theo quy định của luật. Bởi khi được bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, doanh nghiệp không chỉ được bảo hộ để phục vụ cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu, kinh doanh một cách an toàn, hợp pháp, mà còn có thể chuyển giao hoặc chuyển nhượng các độc quyền này cho các chủ thể khác để thu lợi, bảo đảm giá trị pháp lý đối với giá trị gia tăng. Doanh nghiệp Việt Nam muốn đầu tư, xuất khẩu, kinh doanh hiệu quả và phát triển bền vững cần có thói quen đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong và ngoài nước, đặc biệt trước khi đề xuất hợp tác với đối tác nước ngoài. Cụ thể như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, sáng chế, thương hiệu, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp…

Chủ sở hữu doanh nghiệp Việt Nam thường có tư tưởng chưa cần thiết để thực hiện biện pháp bảo vệ vì không có tranh chấp, nếu đăng ký bản quyền, sử dụng dịch vụ pháp lý… sẽ tốn kém. Các vấn đề tối ưu thường tập trung cho sản xuất, sáng tạo, trong khi đó thường coi nhẹ vấn đề pháp lý bảo vệ bản quyền. Song khi có tranh chấp dẫn đến khó khăn trong thu thập chứng cứ. Câu chuyện cà phê Trung Nguyên, kẹo dừa Bến Tre, nước mắm Phú Quốc, gạo ST25… là điển hình quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam bị xâm hại tại thị trường nước ngoài.

Kinh nghiệm của Thái Lan và Indonesia về cơ chế Nhà nước giúp doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ và hiệu quả các chiến dịch quảng bá đặc sản địa phương ra nước ngoài là bài học rất quý báu mà Việt Nam cần nghiên cứu để áp dụng. Đặc biệt chương trình Nhà nước thực hiện xây dựng chỉ dẫn địa lý quốc gia và phát triển mỗi tỉnh tối thiểu có một chỉ dẫn địa lý được bảo hộ, đồng thời tổ chức các triển lãm trong nước kết nối doanh nghiệp xuất khẩu và nhà nhập khẩu nước ngoài, cũng như làm việc với các doanh nghiệp có siêu thị lớn ở nước ngoài mở ra các kênh tiêu thụ mới, ổn định cho sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ của Chính phủ Thái Lan, hay việc Indonesia hỗ trợ bảo hộ quảng bá sản phẩm cà phê sang các thị trường lớn…là những bài học rất hữu ích và có thể áp dụng cho Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

  1. English.luatvietnam.vn, 8/2023, “Navigating the IP Landscape: Key Considerations for Korean Companies Exporting to Vietnam”
  2. KIPO annual report 2022
  3. Cổng thông tin ASEAN Việt Nam aseanvietnam.vn