Hoàn thiện chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
15:51 - 14/10/2024
ThS. Phạm Quang Hiếu
Viện Nghiên cứu chiến lược, chinh sách Công Thương
Tóm tắt: Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giúp nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh, tạo giá trị gia tăng, góp phần tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu nền kinh tế. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ sự phát triển các doanh nghiệp CNHT, nhưng nhìn chung, cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản phẩm CNHT chưa đầy đủ và đồng bộ, còn chung chung, chồng chéo và mâu thuẫn nên hiệu lực thực thi và hiệu quả chính sách chưa cao. Hiện vẫn thiếu những cơ chế chính sách đủ mạnh về việc tạo điều kiện hỗ trợ sản phẩm đầu ra được áp dụng rộng rãi trong thực tế, chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng ứng dụng của các doanh nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực CNHT.
(Bài báo là sản Chuỗi hội thảo đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp nền tảng của Việt Nam)
1. Tổng quan một số cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ quy định các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với các ngành: cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt - may, da - giầy và công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghiệp công nghệ cao. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ. Ngoài ra, còn có những cơ chế, chính sách khuyến khích về phát triển thị trường, về hạ tầng cơ sở, về khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, về cung cấp thông tin, về tài chính cũng như những ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 26/8/2011 ban hành kèm theo Quyết định này Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển. Các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển nêu tại Điều 1 được xem xét áp dụng cơ chế hỗ trợ thích hợp theo quy định tại Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ.
Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03/11/2015 của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ ban hành những quy định các chính sách hỗ trợ, chính sách ưu đãi nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ. Các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ bao gồm nghiên cứu và phát triển, ứng dụng và chuyển giao, phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế về công nghiệp hỗ trợ, hỗ trợ phát triển thị trường, trung tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ, chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ. Ngoài ra còn có chính sách ưu đãi đối với Dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025. Theo đó, thực hiện Chương trình chia làm 2 giai đoạn 2016-2020 và 2021-2025, các nội dung hỗ trợ chính gồm: a) Kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng ở trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ; b) Hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất; c) Hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; d) Hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; đ) Xây dựng và vận hành trang thông tin về công nghiệp hỗ trợ. Kinh phí thực hiện giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 là từ nguồn vốn sự nghiệp kinh tế thuộc ngân sách Trung ương và các nguồn vốn khác dành cho các hoạt động phát triển công nghiệp hỗ trợ do Bộ Công Thương quản lý và tổ chức thực hiện dự kiến là 1.147,6 tỷ đồng, trong đó vốn Ngân sách nhà nước là 986,4 tỷ đồng, nguồn vốn khác là 161,2 tỷ đồng.
Giai đoạn 2021-2025 tiếp tục thực hiện các hoạt động hỗ trợ như giai đoạn 2016-2020 với kinh phí thực hiện từ nguồn sự nghiệp kinh tế thuộc ngân sách Trung ương và các nguồn vốn khác dành cho các hoạt động phát triển công nghiệp hỗ trợ do Bộ Công Thương quản lý và tổ chức thực hiện dự kiến là 870,7 tỷ đồng, trong đó vốn Ngân sách nhà nước là 750,2 tỷ đồng, nguồn vốn khác là 120,5 tỷ đồng.
Quyết định số 10/2017/QĐ-TTg ngày 03/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và thực hiện Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ để thực hiện Nghị định số 111/2015/NĐ-CP. Nội dung hỗ trợ bao gồm kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ; hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị doanh nghiệp, quản trị sản xuất; hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; xây dựng và công bố thông tin về công nghiệp hỗ trợ hàng năm.
Quyết định số 598/QĐ-TTg ngày 25/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành công nghiệp giai đoạn 2018-2020, xét đến năm 2025 cũng nêu yêu cầu tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử, cơ khí, dệt may, da giày; lựa chọn mô hình thí điểm hỗ trợ một số doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực linh kiện điện tử, ô tô...
Nhìn lại có thể thấy, chủ trương, chính sách phát triển CNHT ở Việt Nam cho đến hiện nay khá đa dạng và đầy đủ:
Thứ nhất, nhận thức về CNHT ngày càng rõ và đầy đủ về nội dung và vai trò, vị trí. Từ chỗ chưa có khái niệm về phát triển CNHT, xem như ngành phụ trợ, bổ trợ đã đi đến chủ trương, chính sách phải chú trọng ưu tiên thúc đẩy CNHT, coi CNHT có ý nghĩa quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, giúp nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh, tạo giá trị gia tăng và phát triển CNHT là một trong những giải pháp quan trọng nhất để Việt Nam cải thiện chất lượng nền kinh tế, phát triển bền vững.
Thứ hai, từ chính sách chú ý phát triển sản phẩm, ngành riêng lẻ đến chú ý phát triển cụm ngành, liên ngành, khu công nghiệp đã hình thành các chuỗi cung ứng nhằm gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, đưa phần giá trị gia tăng trong thành phẩm chiếm tỷ lệ ngày càng cao.
Thứ ba, chính sách chú ý đến phát triển các ngành CNHT nhằm cung ứng cho các cơ sở FDI, đồng thời tiến đến mở rộng mục tiêu tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu, hướng đến xuất khẩu các sản phẩm CNHT ra thị trường thế giới (chứ không chỉ là vệ tinh của các doanh nghiệp FDI trong nước).
Thứ tư, chú ý đến phát triển các doanh nghiệp lớn, mang tính lan tỏa, dẫn dắt, tạo chuỗi cung ứng không chỉ đối với các doanh nghiệp FDI mà ngay cả cung cấp cho các doanh nghiệp nội địa tạo sản phẩm hoàn chỉnh đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu, nâng tầm thương hiệu sản phẩm Việt Nam;
Thứ năm, từ chính sách cơ cấu ngành đã chú ý toàn diện hơn đến các chính sách khuyến khích, hỗ trợ…về thuế, tài chính, tín dụng, đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện thể chế nhằm tạo môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp CNHT phát triển ở Việt Nam;
Thứ sáu, cùng với chủ trương đầu tư phát triển mạnh CNHT, Việt Nam đã hình thành hệ thống chính sách khá hoàn chỉnh với CNHT trên cả 3 mảng: [1] Các chính sách ưu đãi về đầu tư, về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, về thuế giá trị gia tăng, về tín dụng; [2]. Các chính sách về hỗ trợ nghiên cứu phát triển CNHT, hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao, phát triển nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế, hỗ trợ phát triển thị trường, hỗ trợ của Trung tâm phát triển CNHT; [3] Các chương trình hỗ trợ phát triển như: hỗ trợ nâng cao năng lực doanh nghiệp, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ nghiên cứu phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ cung cấp thông tin CNHT, hỗ trợ quốc tế, xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật các sản phẩm CNHT, xây dựng cơ sở dữ liệu CNHT.
2. Một số nhận định, đánh giá
Với hệ thống chính sách hỗ trợ ngày càng hoàn thiện và thiết thực hơn đã góp phần thúc đẩy ngành CNHT dần phát triển, có thể thể nhận thấy qua những kết quả đạt được sau:
Thứ nhất, CNHT được quan tâm, thúc đẩy tăng cường liên kết, nâng dần sự vững chắc trong chuỗi cung ứng cho những ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử, công nghiệp chế biến nông sản… Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ và gia tăng tỷ lệ nội địa hóa; Cơ cấu sản phẩm có sự dịch chuyển tích cực khi tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao và vừa của Việt Nam đã tăng lên đáng kể, tạo cơ sở hình thành một số tập đoàn công nghiệp tư nhân có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu tăng từ 65% năm 2016 lên 86% năm 2022; Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 44,3% năm 2016 lên 49,8% năm 2020.
Thứ hai, số lượng doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành CNHT tăng lên. Theo Bộ Công Thương hiện có khoảng 5.000 doanh sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó có hàng trăm doanh nghiệp đã tham gia được vào mạng lưới sản xuất của các tập đoàn đa quốc gia. Số doanh đang hoạt động trong CNHT chiếm khoảng 4,5% tổng số doanh của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo và tạo việc làm cho hơn 600.000 lao động chiếm 8% lao động toàn ngành chế biến, chế tạo, doanh thu thuần sản xuất, kinh doanh đạt hơn 900.000 tỷ đồng, đóng góp khoảng 11% tổng doanh thu toàn ngành chế biến, chế tạo...
Thứ ba, chất lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngày càng được cải thiện nâng cao. Doanh nghiệp CNHT trong nước cũng ngày càng tích cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo. Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện của Việt Nam có năng lực tốt ở các lĩnh vực, như: sản xuất khuôn mẫu các loại; linh kiện xe đạp, xe máy; linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; dây cáp điện; linh kiện nhựa - cao su kỹ thuật; săm lốp các loại… Tính đến năm 2022 số lượng nhà cung ứng cấp 1 và cấp 2 cho chuỗi giá trị của Samsung đã tăng lên 257 doanh nghiệp, tăng gấp 10 lần so với năm 2014. Ngoài Samsung, hiện có hàng trăm doanh nghiệp CNHT Việt Nam đã trở thành nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng cho các hãng Toyota, LG, Trường Hải…
Thứ tư, năng lực sản xuất sản phẩm CNHT trong nước được nâng lên, tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp tại Việt Nam được cải thiện. Đối với ngành ngành điện tử gia dụng tỷ lệ nội địa hóa là 30 - 35% nhu cầu linh kiện; điện tử phục vụ các ngành ô tô - xe máy khoảng tỷ lệ nội địa hóa 40%, ngành dệt may tỷ lệ nội địa hóa 55% (năm 2020).
Thứ năm, Việt Nam đã hình thành được một số doanh nghiệp lớn, có tiềm lực tài chính mạnh, nguồn nhân lực chất lượng cao, liên kết hợp tác chặt chẽ với các công ty đa quốc gia, đi tiên phong trong việc ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, công nghệ cao, tạo dựng và tham gia sâu trong chuỗi cung ứng toàn cầu như Vinfast, Thaco, TC Motor, Vietel…
3. Những vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện chính sách cho ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam thời gian tới
Một là, cần thay đổi mạnh mẽ nhận thức và tư duy của nhà lãnh đạo, quản lý, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội về phát triến CNHT trong bối cảnh mới trong nước và quốc tế, nhằm thích ứng và phù hợp với trình độ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu sắc của Việt Nam và tạo những đột phá mới cho sản phẩm CNHT tham gia sâu trong chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần đẩy nhanh CNH.HĐH, nhanh chóng đưa nước ta thành nước công nghiệp phát triển.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển ngành CNHT. Đây là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tạo ra một môi trường thuận lợi giúp các doanh nghiệp CNHT có điều kiện tốt nhất để phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng tốt với yêu cầu của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo hạ nguồn. Theo đó, trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và triển khai đồng bộ các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển CNHT và các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ưu tiên phát triển. Đặc biệt, Chính phủ cần sớm trình Quốc hội ban hành Luật Công nghiệp hỗ trợ để tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực này, đồng thời, có yêu cầu các tập đoàn nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam phải nâng cao tỷ lệ nội địa hóa bằng cách đặt hàng của các doanh nghiệp trong nước, nhưng theo hướng sẽ sử dụng các công cụ, đòn bẩy của kinh kinh tế trường, hỗ trợ các tập đoàn nước ngoài về thuế và chính sách khác theo tỷ lệ đặt hàng nội địa.
Ba là, để các chính sách về CNHT đi vào cuộc sống, tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp CNHT phát triển, thì các quy định hỗ trợ cần khả thi hơn, có thể ước lượng được sự tác động, đóng góp tích cực cho cộng đồng doanh nghiệp, không nên gói gọn ở một vài đối tượng, đặc biệt là CNHT - được xem là một trong những ngành quan trọng của nền kinh tế.
Bốn là, cần thiết phải hình thành, phát triển và tăng cường năng lực KH&CN của Việt Nam, trong đó tăng cường chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu của CMCN 4.0, đi tắt đón đầu cho phát triển nền kinh tế nói chung và sản phẩm, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ nói riêng. Có như vậy mới tạo được những đột phá mới trong việc nâng cao năng lực sản phẩm CNHT tham gia chuỗi giá trị toàn cầu hàng CBCT.
Năm là, cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT. Để thực hiện được điều này, cần mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có uy tín trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo từ các trường đại học cho đến các trường dạy nghề để nâng cao dần chất lượng của những người lao động trong tương lai.
Sáu là, nỗ lực phát triển doanh nghiệp CNHT Việt Nam, nâng cao chất lượng, năng lực DN CNHT, tăng cường sự liên kết, kết nối giữa các doanh nghiệp trong quá trình phát triển CNHT. Từ thực tiễn phát triển CNHT ở Việt Nam thời gian qua có thể thấy, thách thức lớn nhất của các doanh nghiệp CNHT chính là tính liên kết lỏng lẻo. Do đó, trong thời gian tới cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm CNHT. Bộ Công Thương và Liên đoàn Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) đóng vai trò chủ yếu, là cầu nối cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước liên kết, hợp tác với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoặc thành lập liên doanh để cùng nhau sản xuất các sản phẩm CNHT.
Bảy là, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho CNHT phát triển. Để thúc đẩy CNHT phát triển, Nhà nước cũng cần quan tâm hiện đại hóa kết cấu hạ tầng bởi chỉ trên cơ sở hiện đại hóa kết cấu hạ tầng mới đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Trong đó, cần quy hoạch xây dựng các khu, cụm, công viên CNHT tập trung, quy mô lớn, hệ thống hạ tầng giao thông, logistics, thông tin… hiện đại và hệ sinh thái xanh, số hóa ở những vùng trọng điểm công nghiệp CBCT.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
[2] Quyết định số 1168/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035
[3] Virac (2024) Báo cáo ngành Ô tô 2023 Việt Nam – Tổng quan ngành, triển vọng
[4] Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định 1415/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/11/2022 phê duyệt Đề án “Thúc đẩy Doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030”.