Định hướng và giải pháp phát triển ngành điện Việt Nam

22:07 - 23/11/2025

ThS. Nguyễn Đức Tùng, ThS. Nguyễn Mạnh Linh, CN. Nguyễn Quang Tuấn

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

Bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng đủ điện là yếu tố nền tảng đảm bảo tăng tốc bứt phá của nền kinh tế và quyết định sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong giai đoạn vừa qua, mặc dù đã nghiên cứu, ban hành đồng bộ các Quy hoạch, Kế hoạch phát triển điện lực quốc gia nhưng các nguồn điện lớn (khí, than, năng lượng tái tạo) đều gặp khó khăn trong quá trình triển khai đầu tư, dẫn tới tiến độ đưa vào vận hành có nguy cơ chậm hơn so với dự kiến. Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nhận định “Ngành năng lượng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Một số hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra trong Nghị quyết 55 vẫn chưa được khắc phục triệt để. Nhiều chỉ tiêu của Nghị quyết 55 khó đạt được”. Với mục tiêu phát triển bền vững, hiệu quả, bài viết đề xuất một số quan điểm và định hướng trong phát triển điện lực quốc gia, từ đó gợi mở một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong giai đoạn tới 2030.

  1. Quan điểm phát triển

- Điện là ngành hạ tầng quan trọng. Điện lực phải phát triển trước một bước để đảm bảo cung ứng điện phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia phải có tầm nhìn dài hạn, hiệu quả, bền vững và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, trước hết; đồng bộ, thống nhất với Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, Quy hoạch tổng thể năng lượng quốc gia.

- Chiến lược, quy hoạch phát triển điện lực phải dựa trên cơ sở khoa học, có tính kế thừa, mang tính động và mở nhưng không hợp thức hóa những sai phạm. Khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước, kết hợp với xuất, nhập khẩu hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả năng lượng. Coi phát triển năng lượng tái tạo; năng lượng mới; năng lượng xanh, sạch là cơ hội để phát triển tổng thể hệ sinh thái công nghiệp năng lượng.

- Phát triển ngành điện phải căn cứ theo nguyên tắc tối ưu tổng thể các yếu tố về nguồn điện, truyền tải điện, phân phối điện, sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả. Có lộ trình phát triển phù hợp đi đôi với bảo vệ tài nguyên, môi trường và chuyển đổi mô hình kinh tế, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia với chi phí hợp lý.

- Phát triển ngành điện phải bám sát xu thế phát triển của khoa học - công nghệ trên thế giới, nhất là về năng lượng tái tạo, năng lượng mới, gắn với quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các bon thấp. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng; từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, tiến tới tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng.

- Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ môi trường phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội. Tăng cường kiểm toán năng lượng; xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ, chế tài đủ mạnh và khả thi để khuyến khích đầu tư và sử dụng các công nghệ, trang thiết bị tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, góp phần thúc đẩy năng suất lao động và đổi mới mô hình tăng trưởng.

- Nhà nước tập trung đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế để phát triển nhanh ngành điện trên nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh và thực hiện cơ chế thị trường về giá bán điện, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia đầu tư, sử dụng điện và đáp ứng yêu cầu phát triển của các vùng, miền.

  1. Định hướng phát triển

Trong giai đoạn vừa qua, việc đầu tư các nguồn điện lớn có nguy cơ chậm tiến độ. Vì vậy trong giai đoạn tới 2030 cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ: tăng cường đầu tư vào các nguồn điện và hệ thống lưới điện để giải tỏa công suất; đẩy nhanh tiến độ các dự án trọng điểm; nghiên cứu, cập nhật, bổ sung các dự án nguồn điện mới, nguồn điện xanh, sạch, bền vững, có tiềm năng phát triển. Cụ thể một số định hướng như sau:

- Phát triển các nguồn điện mới với công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường. Đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các nhà máy đang vận hành. Có kế hoạch đổi mới công nghệ, chuyển đổi nhiên liệu hoặc dừng hoạt động các nhà máy không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường.

- Tập trung tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng và đưa vào vận hành các nhà máy điện theo Quyết định 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (sau đây gọi tắt là Quy hoạch); Quyết định 1509/QĐ-BCT, ngày 30/5/2025 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 điều chỉnh (sau đây gọi tắt là Kế hoạch thực hiện Quy hoạch). Đối với các dự án đã có trong Quy hoạch nhưng chưa đầu tư xây dựng, tổ chức thực hiện việc lựa chọn chủ đầu tư (đối với dự án chưa chấp thuận nhà đầu tư) theo thẩm quyền và chỉ đạo chủ đầu tư khẩn trương triển khai thực hiện dự án theo các quy định pháp luật, phấn đấu bảo đảm mục tiêu đã được phê duyệt.

- Nghiên cứu, rà soát, bổ sung các dự án tiềm năng vào Quy hoạch trên cơ sở cân đối tổng thể nguồn, tình hình thực hiện, tiến độ triển khai các loại hình nguồn điện, đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định của Luật Quy hoạch và quy định pháp luật khác có liên quan. Trong đó ưu tiên phát triển các nguồn điện từ năng lượng tái tạo; các loại nguồn tích trữ năng lượng như thủy điện tích năng, hệ thống lưu trữ năng lượng ESS (BESS),…; phát triển tối đa tiềm năng điện năng lượng tái tạo có lắp đặt thiết bị lưu trữ để hỗ trợ các nguồn điện nền lớn, chậm tiến độ, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Nghiên cứu cơ chế triển khai các dự án (kể cả cơ chế đặc thù nếu cần thiết) để thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả, huy động được nguồn lực của các thành phần kinh tế (nhất là vai trò của các tập đoàn nhà nước trong triển khai các dự án).

- Thực hiện chuyển dịch năng lượng bám sát xu thế phát triển công nghệ và giá thành trên thế giới. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái tạo (thủy điện, điện gió trên bờ và ngoài khơi, mặt trời,...), năng lượng mới, năng lượng sạch (hydro, amoniac xanh...) phù hợp với khả năng hấp thụ của hệ thống, khả năng giải tỏa công suất của lưới điện, giá thành điện năng và chi phí truyền tải hợp lý gắn với bảo đảm vận hành an toàn và tính kinh tế chung của hệ thống điện, tận dụng tối đa cơ sở hạ tầng lưới điện hiện có. Xem xét đẩy mạnh phát triển các dự án nguồn điện có khả năng xây dựng nhanh như điện mặt trời, điện gió trên bờ, đặc biệt là các dự án kèm theo hệ thống lưu trữ năng lượng ESS (BESS), các dự án điện tự sản, tự tiêu, tham gia thị trường điện cạnh tranh, mua bán điện trực tiếp.

- Ưu tiên phát triển nhiệt điện khí sử dụng nguồn khí trong nước, phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng khí thiên nhiên hóa lỏng, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống điện. Tập trung phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam theo chỉ đạo của Chính phủ. Phấn đấu hoàn thành trước 2035 và cố thể đẩy sớm tiến độ nếu điều kiện thuận lợi. Đây là nguồn điện nền quan trọng, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và thực hiện mục tiêu Net-zero các bon đến năm 2050.

- Phát triển nguồn điện cân đối theo lợi thế và nhu cầu phụ tải từng vùng, miền, hướng tới cân bằng cung - cầu nội vùng. Bố trí hợp lý các nguồn điện ở các địa phương trong vùng nhằm tận dụng tiềm năng sẵn có, khai thác hiệu quả các nguồn điện, đảm bảo tin cậy cung cấp điện tại chỗ, giảm tổn thất kỹ thuật, giảm truyền tải điện đi xa.

- Nghiên cứu, tạo lập liên kết lưới điện với các nước láng giềng (Trung Quốc, Lào, Campuchia,...), nghiên cứu hợp tác, liên kết lưới điện với các nước tiểu vùng sông Mê Công, các nước ASEAN để tận dụng tốt tiềm năng về năng lượng của từng quốc gia, tối ưu hóa vận hành của hệ thống điện liên kết.

- Bảo đảm phát triển hệ thống lưới điện đồng bộ giải tỏa công suất các nhà máy điện và nhu cầu phát triển phụ tải của các địa phương; thực hiện đầu tư cân đối giữa phát triển nguồn điện và nhu cầu điện giữa các vùng, miền trên cơ sở sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp của mỗi vùng, miền.

  1. Giải pháp phát triển ngành điện Việt Nam

Sau khi Luật Điện lực được thông qua vào 30/11/2024 (có hiệu lực thi hành từ 01/02/2025), Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn. Tiêu biểu như Nghị định 58/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Điện lực về phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới; Nghị định 57/2025/NĐ-CP quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn; Nghị định 56/2025/NĐ-CP hướng dẫn Luật Điện lực về quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện, đầu tư xây dựng dự án điện lực và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án kinh doanh điện lực. Bộ Công Thương cũng đã kịp thời ban hành các Thông tư hướng dẫn về hệ thống truyền tải điện, phân phối điện và đo đếm điện năng; bảo vệ an toàn trong lĩnh vực điện lực; vận hành Thị trường bán buôn điện cạnh tranh; phê duyệt giá điện cho các loại hình nguồn điện năm 2025 như điện LNG, thủy điện tích năng, điện gió ngoài khơi,… Qua đó tạo khuôn khổ pháp lý, minh bạch và ổn định trong  hoạt động sản xuất và kinh doanh điện; thúc đẩy sự phát triển của thị trường điện cạnh tranh, tạo điều kiện cho các nhà sản xuất tự do cạnh tranh và cung cấp điện với giá cả hợp lý; tạo môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư vào ngành điện, đặc biệt là các dự án điện năng lượng tái tạo. Tuy nhiên cơ chế, chính sách phát triển ngành điện vẫn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập. Ngày 20/8/2025, Bộ Chính Trị đã ban hành Nghị quyết số 70-NQ/TW về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó chỉ ra các hạn chế, yếu kém: “Chính sách, pháp luật về phát triển năng lượng còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, nhất là cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho phát triển năng lượng, khuyến khích sản xuất, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, quy hoạch điều chỉnh thiếu linh hoạt, chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn, việc tổ chức thực hiện thiếu đồng bộ, nhất là quy hoạch điện.Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp. Chiến lược phát triển năng lượng, đặc biệt trong ngành điện chưa ổn định, đồng bộ; chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và một số ngành liên quan.”

Để thực hiện hiệu quả Quy hoạch điện 8 điều chỉnh, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, cần nghiêm túc thực hiện các quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 70-NQ/TW: “Phát triển năng lượng được ưu tiên cao nhất để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng liên tục trên 10% trong giai đoạn tới, thực hiện hai mục tiêu 100 năm của đất nước. Quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia phải được lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện tập trung, thống nhất, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả”. Trong khuôn khổ bài viết, xin kiến nghị một số nội dung như sau:

- Thứ nhất, cụ thể hóa các quan điểm, giải pháp chỉ đạo tại Nghị quyết 70-NQ/TW. Sớm ban hành các chính sách đột phá nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển năng lượng quốc gia. Trong đó tập trung tháo gỡ điểm nghẽn trong quy hoạch, đầu tư và phát triển nguồn điện; rút gọn thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ, đẩy nhanh tiến độ khởi công và vận hành dự án nguồn điện, lưới điện.

- Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Điện lực năm 2024 (sửa đổi), Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2025 (sửa đổi). Sớm ban hành các văn bản: (i) Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2025/NĐ-CP ngày 03/3/2025 của Chính phủ quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn; (ii) Nghị định số 58/2025/NĐ-CP ngày 03/3/2025 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Điện lực về phát triển điện năng lượng tái tạo, năng lượng mới; (iii) Nghị định quy định về ứng dụng khoa học, công nghệ và phát triển công nghiệp chế tạo trong lĩnh vực điện lực (triển khai Điều 8. Ứng dụng khoa học, công nghệ và phát triển công nghiệp chế tạo trong lĩnh vực điện lực của Luật Điện lực năm 2024).

- Thứ ba, khẩn trương ban hành cơ chế chính sách tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, phát triển các loại hình nguồn điện năng lượng tái tạo như công tác lựa chọn, cấp chủ trương, chấp thuận nhà đầu tư đủ năng lực thực hiện dự án; quy định cấp phép khảo sát và giao vùng nước (với các nguồn điện gió ven bờ và ngoài khơi), thủ tục đầu tư nguồn điện tự sản tự tiêu (với điện mặt trời mái nhà).

- Thứ tư, nghiên cứu cơ chế, chính sách ưu đãi, khuyến khích vượt trội cho các dự án nguồn điện có quy mô và vốn đầu tư lớn như điện khí LNG, điện gió ngoài khơi, điện hạt nhân nhằm đảm bảo tiến độ vận hành theo Quy hoạch. Đẩy mạnh việc phát triển thị trường mua bán điện cạnh tranh, xây dựng thị trường dịch vụ phụ trợ cho ngành điện.

- Thứ năm, xây dựng chính sách quản lý, tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch. Trong đó có chế tài xử lý kiên quyết, hiệu quả các dự án điện chậm tiến độ. Thường xuyên, định kỳ rà soát, báo cáo tiến độ thực hiện các công trình nguồn điện, lưới điện để kịp thời kiến nghị điều chỉnh Kế hoạch thực hiện Quy hoạch.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Chính trị, 2025, Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  2. Bộ Chính trị, 2020, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  3. Thủ tướng Chính phủ, 2025, Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 3/01/2025 về chủ động giải pháp bảo đảm cung ứng đủ điện phục vụ sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân trong thời gian cao điểm năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.
  4. Thủ tướng Chính phủ, 2025, Quyết định 768/QĐ-TTg ngày 15/4/2025 phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
  5. Bộ Công Thương, 2025, Quyết định 1509/QĐ-BCT, ngày 30/5/2025 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 điều chỉnh.