Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực của Việt Nam đến năm 2030

14:35 - 28/10/2024

ThS. Hoàng Thị Vân Anh

 Viện Nghiên cứu Chiến lược, chính sách Công Thương

Tóm tắt: Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 19/04/2022, được thực hiện trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều bất ổn và biến động khó lường về địa kinh tế, địa chính trị, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, sự phân mảnh toàn cầu hóa, sự thay đổi các chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu, khu vực, chủ nghĩa bảo hộ thương mại gia tăng, trong khi CMCN 4.0 bùng nổ với kinh tế số, nền tảng số được dự báo là xu hướng chủ đạo của kinh tế thế giới. Những xu hướng mới này của kinh tế, thị trường thế giới được dự báo là sẽ tác động ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu của Việt Nam trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng sâu sắc trong nền kinh tế thế giới, nhất là độ mở của nền kinh tế Việt Nam rất lớn với tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa chiếm tới hơn 82,4% so với GDP năm 2023. Có thể nói, bối cảnh mới trong nước và quốc tế sẽ tác động ảnh hưởng sâu sắc trong cả giai đoạn thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu đến năm 2030; đồng thời, những thực tiễn mới sẽ tạo ra cơ hội và thách thức mới đan xen tới hoạt động phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực của Việt Nam thời gian tới. Vì vậy, việc nghiên cứu, đề xuất các định hướng và giải pháp phát triển thị trường xuất khẩu các ngành nhóm hàng chủ lực càng trở nên cần thiết nhằm mở rộng và duy trì sự ổn định, phát triển bền vững thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, góp phần hoàn thành thắng lợi các mục tiêu Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030.  

Từ khóa: nhóm hàng ngành hàng chủ lực, xuất khẩu, thị trường xuất khẩu

  1. Khái quát chung về thực trạng phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực của Việt Nam giai đoạn 2016-2023

1.1. Những kết quả đạt được  

Thứ nhất, phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực thời gian qua đã thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa tiếp tục được mở rộng về quy mô, đa dạng, phong phú về chủng loại và phát triển thêm nhiều mặt hàng mới, số lượng và chất lượng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực không ngừng được cải thiện tăng cao. Xuất khẩu hàng hóa được mở rộng về quy mô, số lượng mặt hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Các mặt hàng chủ lực truyền thống có quy mô xuất khẩu lớn như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, máy móc, thiết bị phụ tùng tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng ổn định; đồng thời đã có bước phát triển đột phá xuất khẩu ngành hàng công nghệ như máy vi tính, thiết bị điện tử, điện thoại di động. Những mặt hàng này có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất hiện nay và duy trì mức tăng trưởng cao, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chung của cả nước, đưa xuất khẩu hàng hóa trở thành một trong ba động lực chính của tăng trưởng kinh tế Việt nam.

Số mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên đã tăng qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2016 có 25 mặt hàng với tỷ trọng chiếm 88,7%; đến năm 2020 là 31 mặt hàng, trong đó có 9 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD và 6 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 92% tổng kim ngạch xuất khẩu; đến năm 2023 có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (có 11 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, trong đó, 07 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD), chiếm 93,6% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Thứ hai, thị trường xuất khẩu không ngừng được mở rộng về quy mô, số lượng theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa, quan hệ thương mại mở rộng tới các châu lục, các khối kinh tế khu vực và quốc tế, khai phá và phát triển thêm nhiều thị trường xuất khẩu mới.

Hiện nay, Việt Nam có quan hệ tao đổi thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. Bên cạnh việc tăng cường và duy trì xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm, truyền thống và đã ký FTA với Việt Nam như Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, các thành viên ASEAN… nhiều thị trường xuất khẩu mới đã được mở ra trên khắp các châu lục đã góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cho Việt Nam và giúp Việt Nam có thể đảm bảo sự tự chủ, linh hoạt, cân bằng hơn trong duy trì sự tăng trưởng và ổn định của hoạt động xuất khẩu.

Số lượng thị trường với quy mô xuất khẩu từ trên 1 tỷ USD đã tăng nhanh chóng. Nếu như năm 2016, mới có 28 thị trường riêng lẻ đạt quy mô xuất khẩu trên 1 tỷ USD, bao gồm 7 thị trường kim ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD và 4 thị trường đạt trên 10 tỷ USD thì đến năm 2020 đã có 31 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 8 thị trường đạt trên 5 tỷ và 5 trong đó đạt trên 10 tỷ USD. Đỉnh điểm là năm 2022 với đỉnh cao kỷ lục của xuất khẩu trong giai đoạn 2016-2023 có tới 33 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 16 thị trường xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD bao gồm 6 thị trường xuất khẩu có kim ngạch trên 10 tỷ USD. Năm 2023 do gặp nhiều khó khăn và thách thức cả bên ngoài và bên trong nền kinh tế, đặc biệt là từ các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đã dẫn đến xuất khẩu hàng hóa suy giảm và phát triển thị trường xuất khẩu gặp nhiều khó khăn nên số lượng thị trường xuất khẩu có kim ngạch trên 1 tỷ USD đã giảm 1 thị trường so với năm 2022 còn 32, trong đó có 14 thị trưởng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 5 tỷ USD (giảm 2 thị trường) và 5 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD (giảm 1 thị trường).

Thứ ba, chất lượng, hiệu quả phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực đã được cải thiện nâng cao thể hiện ở:

- Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu diễn ra khá tích cực. Chuyển dịch cơ cấu thị trường diễn ra tích cực và tương đối phù hợp với xu hướng thay đổi, vận động của chuỗi cung ứng/chuỗi giá trị khu vực/toàn cầu, cũng như việc Việt Nam khai thác, tận dụng các cơ hội từ hội nhập quốc tế sâu sắc, ký kết, thực hiện nhiều FTAs song phương, khu vực, đa phương để đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường tham gia các chuỗi giá trị khu vực/toàn cầu. Đặc biệt, Việt Nam đã đạt được sự cân bằng và hài hòa hơn trong cơ cấu thị trường xuất khẩu giữa các thị trường châu lục, trong đó các thị trường xuất khẩu lớn nhất là những nhà nhập khẩu và đối tác thương mại lớn toàn cầu như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, thị trường các nước thành viên ASEAN, EU, Anh, CPTPP, RCEP. Hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam tiếp tục củng cố, giữ vững các thị trường truyền thống, trọng điểm như Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản và mở rộng, phát triển thêm nhiều thị trường mới ra khắp thế giới, bao gồm vươn tới châu Phi, Mỹ Latin. Điều này đem đến sự cân bằng và tự chủ tốt hơn cho hoạt động xuất khẩu cũng như cho nền kinh tế Việt Nam.

- Việt Nam ngày càng khai thác, tận dụng tốt hơn các cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia các FTA. Tính đến nay, Việt Nam tham gia đàm phán và ký kết 19 FTA, bao gồm 16 FTA đã có hiệu lực, trong đó có nhiều FTA thế hệ mới tiêu chuẩn cao như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP, đồng thời đang đàm phán 03 FTA (Việt Nam - EFTA, ASEAN - Canada và Việt Nam - UAE FTA). Việc khai thác và tận dụng ngày càng hiệu quả các thị trường FTA này đã giúp không chỉ mở rộng quy mô, số lượng hàng hóa xuất khẩu, mà còn thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam diễn ra nhanh hơn theo chiều sâu, cải thiện chất lượng và nâng cao giá trị gia tăng và hiệu quả xuất khẩu hàng hóa với các thị trường đã ký FTA.

- Tiến tới việc đảm bảo cân bằng, hài hòa hơn cán cân thương mại với các đối tác chủ yếu, làm giảm nguy cơ xảy ra tranh chấp thương mại và giúp tăng cường sự lành mạnh của cán cân thương mại tránh nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. Mức xuất siêu lớn đối với các thị trường phát triển Hoa Kỳ, EU,… đã dần thu hẹp trong khi giảm dần mức nhập siêu khổng lồ từ Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN… đã giúp cho việc phát triển xuất khẩu sang các thị trường chủ yếu trở nên cân bằng hơn, hạn chế các rủi ro về tranh chấp thương mại song phương, tạo thuận lợi hơn cho xuất khẩu và góp phần vào sự ổn định, cân bằng và lành mạnh của cán cân thương mại và ổn định kinh tế vĩ mô tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu. Đồng thời, việc giảm xuất siêu sang các thị trường phát triển cũng có thể do Việt Nam tăng nhập khẩu hàng hóa từ những thị này để phục vụ cho phát triển sản xuất phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu sang các nước này cũng như sang các nước thứ ba, điều đó cho phép nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam.  

1.2. Những bất cập, hạn chế

Thứ nhất, phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa thời gian qua chưa làm tốt vai trò kết nối, định hướng và dẫn dắt phát triển sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nền kinh tế, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang chiều sâu theo hướng CNH, HĐH và phát triển xanh, ổn định và bền vững. Trên thực tế, hàng hóa xuất khẩu đã tăng nhanh về sản lượng và kim ngạch ở mức hai chữ số thời gian qua. Tuy nhiên, việc tăng nhanh về lượng của xuất khẩu hàng hóa chưa đem đến những thay đổi về chất trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu. Đối với ngành chế biến, chế tạo xuất khẩu như dệt may, da giầy, hàng điện tử, điện thoại, phương tiện vận tải, xuất khẩu chủ yếu làm gia công, lắp ráp cho các doanh nghiệp FDI, giá trị gia tăng và giá trị nội địa của sản phẩm thấp, chưa được cải thiện nhiều; xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng công nghệ và chất xám cao còn hạn chế và chủ yếu phụ thuộc vào khu vực doanh nghiệp FDI. Hàng nông sản xuất khẩu còn gặp nhiều khó khăn về tiếp cận và mở rộng thị trường xuất khẩu do chưa đáp ứng được những yêu cầu cao và nghiêm ngặt về tiêu chuất chất lượng, an thực phẩm, các tiêu chuẩn xã hội và môi trường đối với sản xuất, chế biến xuất khẩu… 

Thứ hai, phát triển thị trường xuất khẩu vẫn chủ yếu diễn ra theo chiều rộng, việc đa dạng hóa và phát triển theo chiều sâu còn hạn chế. Tuy Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế thương mại và phát triển xuất khẩu tới hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng mức độ tập trung xuất khẩu vào các thị trường truyền thống còn rất lớn, bởi top 20 thị trường xuất khẩu lớn nhất hiện nay của Việt Nam đang chiếm tới trên 85,5% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước, còn lại hơn 180 thị trường khác chỉ chiếm chưa đầy 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Việc xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng dễ bị tổn thương trước biến động từ bên ngoài như giá cả thị trường thế giới, sự xuất hiện rào cản thương mại mới, việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước nhập khẩu… cũng bộc lộ những yếu kém và bất cập trong phát triển thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Đáng kể là, mặc dù đã được cải thiện nhiều năng lực dự báo, nhận biết các chính sách, những thay đổi trên thị trường thế giới còn hạn chế, nhưng khả năng thích ứng với bối cảnh mới và ứng phó với các rào cản thương mại của doanh nghiệp còn yếu.

Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu còn chậm, thiếu đột phá, còn phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường xuất khẩu chủ lực. Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu chủ yếu mới chỉ là sự thích ứng với thay đổi của tình hình, vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ những điểm yếu. Đa phần thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vẫn là các thị trường truyền thống lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, việc khai phá các thị trường mới tiềm năng còn hạn chế. Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn nhất vào khu vực thị trường châu Á với tỷ trọng ở khoảng 47% - 54%. Đặc biệt, việc tập trung xuất khẩu và tăng mạnh thị phần xuất khẩu sang hai thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc trong giai đoạn 2016-2023 cho thấy mức độ tập trung cao hơn của xuất khẩu Việt Nam vào các đối tác thương mại trọng tâm, đồng thời cũng cho thấy những khó khăn trong thực hiện định hướng đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Tuy rằng đây là khu vực thị trường phát triển năng động và giàu tiềm năng nhất, đồng thời cũng chứng tỏ sự phù hợp với xu hướng ký kết tham gia các FTA mới của thế giới cũng như sự chuyển dịch chuỗi cung ứng hiện nay, nhưng việc tập trung quá lớn xuất khẩu vào một khu vực hoặc một vài thị trường nhất định sẽ dẫn đến những rủi ro và tính ổn định, bền vững của phát triển thị trường xuất khẩu và có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội có thể khai phá, mở rộng thị trường xuất khẩu về lâu dài.

Thứ tư, phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực chưa thực sự bền vững và dễ bị thương tổn bởi những thay đổi của môi trường quốc tế cũng như thay đổi chính sách của các thị trường nhập khẩu. Kết quả xuất khẩu giảm năm 2023 dù chịu ảnh hưởng lớn bởi nhiều nguyên nhân khách quan từ môi trường quốc tế, trong đó có sự suy giảm mạnh nhu cầu của các thị trường nhập khẩu lớn nhất Việt Nam, nhưng cũng cho thấy những hạn chế rõ ràng trong phát triển thị trường xuất khẩu, do những nguyên nhân chủ quan và những yếu kém của cơ cấu kinh tế, cơ cấu hàng hóa cũng như yếu kém của các doanh nghiệp của Việt Nam trong việc duy trì tăng trưởng xuất khẩu.

Thứ năm, những mất cân đối trong xuất khẩu giữa khu vực doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI, giữa cán cân xuất, nhập khẩu chung và cán cân thương mại của từng khu vực/thị trường/mặt hàng xuất khẩu chủ lực khiến cho hiệu quả, sức cạnh tranh của hoạt động xuất khẩu còn thấp, thiếu ổn định và chưa bền vững. Xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước không cao, thiếu ổn định và nhập siêu của các doanh nghiệp trong nước vẫn ở mức cao làm cho cán cân thương mại chung của giai đoạn này của khu vực doanh nghiệp trong nước vẫn duy trì trạng thái thâm hụt. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI ngày càng tận dụng tốt hơn những ưu thế của hội nhập quốc tế. Xuất khẩu khu vực này luôn đạt mức tăng trưởng cao và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn khu vực trong nước kéo theo xuất siêu của khối doanh nghiệp FDI gia tăng.

Trong thời gian tới, với việc tỷ trọng các dự án FDI trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ngày càng tăng, đặc biệt một số dự án lớn để sản xuất hàng xuất khẩu đang tích cực giải ngân, mở rộng sản xuất, dự kiến khu vực doanh nghiệp FDI vẫn tiếp tục giữ vị trí chủ đạo trong việc tạo ra giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, việc đóng góp lớn vào xuất khẩu của khu vực FDI còn có những vấn đề đáng lưu tâm như:

- Mặc dù xuất khẩu của khu vực FDI gia tăng, nhưng đi kèm là nhập khẩu các yếu tố sản xuất cũng gia tăng nhanh, phản ánh thực trạng các doanh nghiệp FDI chủ yếu tập trung vào các ngành gia công, chỉ tạo giá trị gia tăng thấp cho kinh tế nội địa, không đóng góp tích cực đến cải thiện tiến bộ khoa học công nghệ và quản trị quốc gia mà đang khai thác lao động và tài nguyên quốc gia.

- Hầu hết xuất khẩu của các nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo (nhóm ngành các doanh nghiệp FDI hướng về xuất khẩu tập trung đầu tư mạnh để tận dụng lao động rẻ) đều kích thích nhập khẩu mạnh mẽ. Nhập khẩu của khu vực này bắt đầu tăng mạnh và đóng góp lớn vào tổng giá trị nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam… Nếu tiếp tục duy trì cấu trúc như hiện nay, khu vực FDI không làm lan tỏa được về công nghệ, lan tỏa đến sản xuất các sản phẩm hỗ trợ của khu vực kinh tế trong nước và thu hút lao động không chỉ là lao động phổ thông (nhân công giá rẻ) thì Việt Nam sẽ đối diện với nguy cơ khó thoát ra khỏi “bẫy thu nhập trung bình” để vươn lên tầm nước công nghiệp mới. 

Thứ sáu, việc khai thác cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia FTA cho phát triển thị trường xuất khẩu nói chung và phát triển xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực nói riêng thời gian qua còn hạn chế, hiệu quả chưa cao, đặc biệt là đối với khu vực kinh tế trong nước. Việc khai thác và tận dụng các ưu đãi về thuế, việc chuẩn bị để đáp ứng các quy tắc xuất xứ và khai thác các lợi ích khác của việc mở cửa thị trường trong các FTA song phương, khu vực và đa phương để đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường FTA còn hạn chế. Theo số liệu của Bộ Công Thương, đến nay mới chỉ có khoảng 37-38% trong KNXK hàng hóa của Việt Nam tận dụng được C/O ưu đãi, như vậy, khoảng hơn 60% KNXK hàng hóa còn lại vẫn chịu mức thuế suất NK cao từ các thị trường NK. Đây rõ ràng là hạn chế lớn trong phát triển thị trường xuất khẩu với các đối tác FTA, nhưng cũng là tiềm năng để Việt Nam tăng xuất khẩu thời gian tới.

  1. 2. Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực đến năm 2030

Một là, quán triệt định hướng trong Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu bền vững đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại quyết định số 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022, trên cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh và nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia sâu và hiệu quả hơn vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng hợp lý theo chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiết kiệm các nguồn tài nguyên, năng lượng, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập người lao động, đảm bảo thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu ổn định lâu dài.

Hai là, định hướng phát triển đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, khai thác hiệu quả cơ hội và hạn chế các thách thức từ việc thực thi cam kết trong các FTA thế hệ mới; chuyển dịch cơ cấu thị trường theo hướng tích cực, đảm bảo tính cân đối, hài hòa về cơ cấu thị trường xuất khẩu, tránh tập trung dẫn đến phụ thuộc quá mức vào một số thị trường trọng điểm, tiếp tục củng cố, giữ vững các thị trường truyền thống, trọng điểm như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc... và phát triển thêm các thị trường mới tiềm năng ở châu Mỹ, khu vực châu Phi, Mỹ La tin; ổn định cán cân thương mại trên các thị trường xuất khẩu, chủ động đề phòng và có cơ chế đối phó kịp thời với các diễn biến nhanh, bất định và khó lường của tình hình thị trường trong nước và thế giới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Ba là, định hướng phát triển thị trường xuất khẩu hàng hóa đi đôi với phát triển thị trường nội địa, giảm sự phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI, góp phần định hướng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo chiều sâu, hướng vào lõi công nghiệp hóa, hiện đại hóa, theo hướng: Tăng tỷ trọng hàng công nghiệp, đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ trung bình và công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng nông, lâm, thủy sản thô trong cơ cấu hàng xuất khẩu; nâng nhanh tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ, chất xám cao, các sản phẩm kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; phát triển thêm nhiều mặt hàng xuất khẩu mới thuộc nhóm công nghệ, chế biến chế tạo, xây dựng và phát triển thương hiệu hàng Việt Nam trên các thị trường xuất khẩu trọng điểm.

Bốn là, tập trung phát triển thị trường cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh lớn, có giá trị gia tăng cao hoặc các nhóm sản phẩm có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn; khai thác hiệu quả các cơ hội mở cửa thị trường từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế trong các FTA thế hệ mới, nâng cao khả năng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, môi trường, quy tắc xuất xứ, đồng thời chủ động thích ứng và vượt qua các rào cản thương mại, các biện pháp phòng vệ thương mại, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ ngày càng nghiêm ngặt của các nước thị trường nhập khẩu để thâm nhập sâu vào các chuỗi cung ứng và kênh phân phối ở nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN, khai thác các thị trường tiềm năng như Nga, Đông Âu, Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tin…

Năm là, tiếp tục các nỗ lực của Nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động phát triển, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu các ngành hàng chủ lực trên phạm vi toàn cầu và đối với từng khu vực thị trường. Định hướng phát triển xuất khẩu đối với các khu vực thị trường cụ thể như sau:

- Đối với thị trường châu Á: (i) Duy trì tăng trưởng xuất khẩu ở mức cao hơn so với nhập khẩu và kiểm soát nhập siêu từ các thị trường lớn châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, ASEAN) đối với các mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo, nông sản... (ii) Tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu có tiềm năng với các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo và sản phẩm Kosher sang thị trường Do thái (Ấn Độ, các nước Nam Á khác và Trung Đông); (iii) Thúc đẩy chuyển nhanh và mạnh sang thương mại chính ngạch đối với các nước có chung đường biên giới gắn với tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm ngăn chặn hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, gian lận thương mại; (iv) Phấn đấu tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường châu Á duy trì ở khoảng 47-48% trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.

- Đối với thị trường châu Âu, đẩy mạnh xuất khẩu nhằm duy trì vững chắc và mở rộng thị phần xuất khẩu tại các thị trường EU (Đức, Hà Lan, Pháp, Italia, Tây Ban Nha…), Anh, Thụy Sỹ, và các nước thành viên Liên minh kinh tế Á - Âu...

- Đối với thị trường châu Mỹ: Tiếp tục tập trung chiến lược xúc tiến xuất khẩu các mặt hàng chế biến chế tạo truyền thống, hàng nông, lâm, thủy sản thế mạnh của Việt Nam, tiếp cận và thu hút mạnh mẽ đầu tư của các công ty đa quốc gia công nghệ cao nhằm tạo bước đột phá xuất khẩu hàng công nghệ cao sang Hoa kỳ giai đoạn đến năm 2030. Tăng cường mở rộng thị trường các nước thành viên Hiệp định thương mại đã ký kết, đặc biệt là hiệp định CPTPP; Đàm phán, ký kết FTA với khu vực thương mại tự do Nam Mỹ Mercosur… để đẩy mạnh xuất khẩu sang Brasil và các thị trường mới nổi khác.

  1. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP

3.1. Giải pháp về phía Nhà nước

Một là, phát triển sản xuất, tạo nguồn cung hàng hóa bền vững cho xuất khẩu các ngành hàng chủ lực

  1. Phát triển sản xuất công nghiệp

- Cơ cấu lại các ngành công nghiệp gắn với thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt trong các ngành chế biến, chế tạo công nghệ trung bình và công nghệ cao nhằm tạo sự bứt phá và động lực mới cho tăng trưởng sản xuất, xuất khẩu đến năm 2030.

- Tăng cường công tác điều phối phát triển theo vùng, lãnh thổ nhằm nâng cao hiệu quả liên kết vùng góp phần hình thành các cụm liên kết ngành, các chuỗi giá trị trong nước, nhằm tận dụng lợi thế về tích tụ công nghiệp tại một số địa phương, vùng kinh tế.

- Triển khai có hiệu quả các quy hoạch phát triển ngành; các chiến lược, quy hoạch, đề án đầu tư phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, công viên công nghiệp; các chiến lược, đề án, kế hoạch xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu.

- Tập trung ưu tiên cao của Nhà nước về vốn, cơ chế, chính sách, hạ tầng cơ sở và nhân lực nhằm tạo ra sự đột phá cho phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong giai đoạn tới năm 2030 nhằm tạo nguồn cung nguyên vật liệu và hàng hóa xuất khẩu bền vững, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nhập khẩu.

- Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo quá trình quản trị sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, trong đó chú trọng đến các công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (AI, Big Date, IoT, in 3D, vật liệu mới,...).

- Tháo gỡ các rào cản về hệ thống thể chế, luật pháp và chính sách kinh tế, tài chính đối với hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, khuyến khích các dự án, nghiên cứu về vật liệu mới, sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm xanh, thân thiện với môi trường, sản phẩm có hàm lượng đổi mới sáng tạo cao nhằm tạo đột phá và đảm bảo tính ổn định, bền vững của hoạt động xuất khẩu, phát huy vai trò là một trong những động lực chủ chốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

  1. Phát triển sản xuất nông nghiệp:

- Triển khai hiệu quả kế hoạch tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với thực hiện chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, phát triển nền sản xuất xanh sạch, bền vững, gắn với phát triển du lịch và ẩm thực.

- Có chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp cho từng cấp sản phẩm chủ lực: Sản phẩm quốc gia; Sản phẩm địa phương; Sản phẩm OCOP; chính sách xây dựng vùng sản xuất nguyên liệu tập trung, quy mô lớn, ứng dụng quy trình kỹ thuật tiên tiến cho chế biến hàng nông sản xuất khẩu.

- Tăng cường liên kết, phát huy vai trò các tổ chức của nông dân (Tổ hợp tác, hợp tác xã nông nghiệp) trong việc phát triển chuỗi giá trị sản phẩm từ sản xuất, thu mua, bảo quản, chế biến, tiếp cận thị trường, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các khâu sản xuất, chế biến, xuất khẩu nông sản.

- Phát triển công nghệ bảo quản để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông sản chế biến; đẩy mạnh việc triển khai, áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc nông, thủy sản xuất khẩu.

- Phát huy vai trò của địa phương trong lựa chọn loại nông sản thích hợp để hình thành vùng sản xuất tập trung theo quy hoạch; xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm chủ lực, nông sản đặc trưng, phát triển thương hiệu đi cùng với các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.

Hai là, phát triển thị trường xuất khẩu các nhóm ngành hàng chủ lực, bảo đảm tăng trưởng bền vững tới năm 2030 và trong dài hạn

- Xây dựng, củng cố và phát triển các quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với các quốc gia thông qua thực thi hiệu quả cam kết trong các Hiệp định thương mại tự do; đẩy mạnh đàm phán và ký kết Hiệp định thương mại tự do với các đối tác đã được Chính phủ cho chủ trương, chú trọng các đối tác có dung lượng thị trường lớn và sẵn sàng mở cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam, đặc biệt là nông sản trên cơ sở có đi có lại; nghiên cứu khả thi việc đàm phán, ký kết các thỏa thuận ưu đãi thương mại với một số đối tác mới có tiềm năng.

- Nâng cao năng lực và tăng cường công tác theo dõi, nghiên cứu thị trường, dự báo, cập nhật các thay đổi về chính sách thương mại, các rào cản phi thuế quan tại các thị trường xuất khẩu.

- Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối hàng hóa tại thị trường nước ngoài.

- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ bảo hộ tài sản trí tuệ và chỉ dẫn địa lý của sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam ở những thị trường nước ngoài trọng điểm; tăng cường tuyên truyền, đào tạo về sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp xuất khẩu.

- Hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý nhà nước về hoạt động xúc tiến thương mại. Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực mạng lưới xúc tiến thương mại ở trong nước và tại nước ngoài nhằm đẩy mạnh xúc tiến thương mại cả ở cấp chính phủ, ngành hàng, địa phương và doanh nghiệp.

- Triển khai kế hoạch xúc tiến xuất khẩu theo định hướng chiến lược về nhóm thị trường trọng điểm, nhóm mặt hàng chủ lực theo từng giai đoạn. Đổi mới, đa dạng hóa các phương thức xúc tiến thương mại phục vụ xuất khẩu thông qua việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến thương mại, kết hợp có hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư, xúc tiến chuyển giao công nghệ, đổi mới và sáng tạo bên cạnh việc quảng bá văn hóa, du lịch... Chú trọng xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm, ngành hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay và các ngành hàng tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam thời gian tới.

Ba là, hoàn thiện thể chế, tăng cường quản lý nhà nước trong tổ chức hoạt động xuất khẩu nhằm tạo thuận lợi thương mại, chống gian lận thương mại và hướng tới thương mại công bằng, hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp vượt rào cản thương mại của các thị trường nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu hàng chủ lực

- Cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh cạnh tranh.

- Đẩy nhanh việc xây dựng và áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, các tiêu chuẩn xã hội và môi trường.

- Hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng và đạt các chứng chỉ về tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn của các thị trường mục tiêu.

- Điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá phù hợp trong bối cảnh mới, hướng đến các mục tiêu công khai, minh bạch và bền vững.

- Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm về bảo vệ môi trường trong hoạt động xuất khẩu, vi phạm về gian lận thương mại, gian lận xuất xứ và lẩn tránh các biện pháp phòng vệ thương mại; Hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu vượt rào cản phi thuế quan, rào cản từ các biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài.

- Hoàn thiện pháp luật, chính sách về phòng vệ thương mại, xem xét sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong lĩnh vực phòng vệ thương mại hoặc nghiên cứu xây dựng Luật Phòng vệ thương mại.

- Đảm bảo an sinh và công bằng xã hội trong hoạt động xuất khẩu; thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển xuất khẩu bền vững.

Bốn là, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển xuất khẩu, nâng cấp cơ sở hạ tầng kho vận, giảm chi phí logistics

- Kêu gọi các tập đoàn lớn, đa quốc gia tham gia đầu tư các dự án sản xuất xuất khẩu, ưu tiên những dự án có quy mô lớn, công nghệ hiện đại, sản phẩm có tính cạnh tranh cao và có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

- Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu từ khâu xây dựng chương trình, tổ chức đào tạo, đánh giá và tạo việc làm.

- Xây dựng năng lực của các tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, phòng thí nghiệm quốc gia đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ việc đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn riêng đối với hàng hóa xuất khẩu.

- Nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, kho bãi, cảng biển, phát triển các loại hình dịch vụ logistics, giảm chi phí logistics, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong logistics.

- Phát triển đội tàu vận tải trong nước để chủ động khai thác thị trường vận tải trong và ngoài nước; có chiến lược kết nối giữa các loại hình vận tải đa phương thức.

3.2. Giải pháp đối với doanh nghiệp

Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách phát triển thị trường xuất khẩu bền vững, đảm bảo hài hòa các mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Doanh nghiệp cần liên hệ chặt chẽ và trao đổi thông tin thường xuyên với hiệp hội ngành hàng, tích cực, chủ động tham gia vào quy trình hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu bền vững và phản ánh quan điểm, đề xuất của mình. Đồng thời, chủ động cập nhật các chính sách ưu đãi, khuyến khích, hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là các ưu đãi về đầu tư, tín dụng, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, nâng cấp cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu.

Hai là, tăng cường quản trị chiến lược doanh nghiệp, thực hiện hiệu quả việc xây dựng, điều chỉnh chiến lược sản xuất, kinh doanh gắn với nhu cầu thị trường xuất khẩu, đảm bảo phát triển bền vững doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược phát triển thị trường của doanh nghiệp cho từng sản phẩm, đảm bảo phát huy lợi thế và thực thi hiệu quả cam kết trong các FTA song phương, khu vực và đa phương mà Việt Nam tham gia, nhất là các FTA thế hệ mới.

Ba là, tăng cường phát triển nguồn cung nguyên vật liệu, linh kiện, phụ tùng cho sản xuất, chế biến, chế tạo sản phẩm xuất khẩu. Doanh nghiệp trong nước cần chủ động về nguồn cung nguyên vật liệu ổn định và bền vững sản xuất, chế biến sản phẩm xuất khẩu thông qua việc đầu tư trực tiếp tạo vùng nguyên liệu của doanh nghiệp và/hoặc tăng cường kết nối, liên doanh, liên kết, hợp tác với các nhà sản xuất, cung ứng nguyên vật liệu đầu vào trong nước hay nhập khẩu để chủ động nguồn cung nguyên vật liệu về số lượng, quy cách phẩm chất, các iêu chuẩn quy định về sản xuất xanh, sạch, thân thiện môi trường, trách nhiệm xã hội, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cho toàn chuỗi cung ứng sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp. Qua đó giúp tăng năng suất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp.

Bốn là, đa dạng hóa, phát triển sản phẩm mới, xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm xuất khẩu

- Tăng cường năng lực sản xuất, cung ứng phát triển sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu và yêu cầu về sản lượng, quy cách phẩm chất, tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn sức khỏe và an toàn lao động, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội và môi trường của thị trường xuất khẩu.

- Nỗ lực đa dạng hóa và phát triển sản phẩm mới, xây dựng bản sắc, thương hiệu, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp trên cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nâng cao giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ, hiệu quả và sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp.

Năm là, đẩy mạnh hoạt động marketing và xúc tiến xuất khẩu trên cơ sở nghiên cứu phân khúc thị trường, xác định thị trường trọng điểm và tiềm năng đối với sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp, từ đó xác định đối tác nhập khẩu mục tiêu, xây dựng các chiến lược, kế hoạch marketing xuất khẩu phù hợp. Tranh thủ sự trợ giúp của tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài, hình thành đại diện của doanh nghiệp, hiệp hội ở các thị trường lớn khu vực EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản…, xác định kênh phân phối trực tiếp nào tốt nhất để tiêu thụ sản phẩm (như siêu thị, nhà nhập khẩu, nhà phân phối, hoặc đại lý tại nước ngoài...); đồng thời, triển khai xây dựng, phát triển các kênh phân phối trực tuyến, áp dụng phương thức xuất khẩu đa kênh, ứng dụng thương mại điện tử B2B, B2C, kết hợp các giải pháp thanh toán trực tuyến...

Sáu là, chủ động nghiên cứu, nắm bắt thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu, pháp luật về hoạt động kinh doanh, thương mại, các nhà nhập khẩu tiềm năng, cùng các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng và môi trường, đóng gói và nhãn hiệu, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp để tuân thủ và thực thi hiệu quả. Đồng thời, tích cực, chủ động trong nắm bắt thông tin về các FTAs, đặc biệt là các cam kết liên quan đến ngành hàng của doanh nghiệp để tận dụng triệt để các cơ hội và hạn chế các thách thức, giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu, đề xuất với các ngành chức năng tiếp tục đàm phán, tháo gỡ các hàng rào kỹ thuật, xã hội và môi trường, ký kết các hiệp định công nhận lẫn nhau với các nước, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam.

Bảy là, chú trọng nâng cao năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu, chủ động tích cực xây dựng nội lực doanh nghiệp về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thông tin, chuyển đổi số

- Cập nhật thông tin, liên kết, hợp tác chuyển giao và khuyến khích hoạt động nghiên cứu, R&D, đổi mới và sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh.

- Tập trung xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN, tập trung vào các lĩnh vực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chế biến, chế tạo hiện đại đối với các sản phẩm chủ lực, công nghệ sản xuất xanh, thân thiện môi trường, chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn ...

- Tập trung các nỗ lực của doanh nghiệp và tranh thủ các nguồn lực và hỗ trợ bên ngoài từ Nhà nước, các quỹ phát triển công nghệ quốc gia, nguồn tài trợ từ các tổ chức, thể chế trong nước và quốc tế để hình thành quỹ phát triển công nghệ doanh nghiệp, tạo nguồn tài chính thường xuyên cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới và sáng tạo trong doanh nghiệp.

- Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất kinh doanh, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu với đa dạng các sản phẩm chất lượng cao, dịch vụ chất lượng quốc tế. Cần thực hiện các chương trình đào tạo mới, đào tạo lại, đổi mới chất lượng nguồn nhân lực doanh nghiệp theo hướng trang bị những tri thức, kỹ năng mới về chuyên môn kỹ thuật, về kinh doanh xuất khẩu, nâng cao trình độ công nghệ thông tin, ngoại ngữ, năng lực xử lý và tác nghiệp các tình huống kinh doanh quốc tế...  

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ Chính trị (2018), Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  2. Bộ Công Thương, Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam các năm 2016, 2019, 2020, 2021, 2022, 2023, Nhà xuất bản Công Thương, Hà Nội.
  3. Bộ Công Thương (1/2024), Báo cáo Tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ - CP, tình hình sản xuất công nghiệp, hoạt động thương mại tháng 1212 tháng năm 2023.
  4. Chính phủ (2023), Nghị Quyết số 26/NQ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Chính phủ ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  5. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đến năm 2030.