Bối cảnh toàn cầu mới và một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đối với phát triển kinh tế, thương mại Việt Nam trong giai đoạn tới

11:12 - 27/11/2025

TS. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa

Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương

 Tóm tắt: Bối cảnh thế giới trong giai đoạn tới có những chuyển biến nhanh và khó lường, trong đó các yếu tố chính trị, an ninh, kinh tế, công nghệ và môi trường đan xen phức tạp sẽ tạo sức ép lên tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển phải chủ động thích ứng và tăng cường nội lực để phát triển kinh tế, thương mại.

Đối với Việt Nam, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cơ bản còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại đã kéo dài nhiều năm. Nhu cầu cho đầu tư phát triển kinh tế, thương mại, bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường là rất lớn, trong khi nguồn lực còn hạn chế, đòi hỏi các cấp Chính phủ, Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, chủ động linh hoạt trong điều hành và thực thi chính sách, phát huy nội lực và đổi mới sáng tạo để nắm bắt cơ hội, hạn chế tối đa thách thức và tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế và thương mại bền vững.

Từ khóa: Bối cảnh, toàn cầu, nhiệm vụ, giải pháp, kinh tế, thương mại, Việt Nam.

1. Bối cảnh toàn cầu mới tác động đến phát triển kinh tế, thương mại việt nam

1.1. Bối cảnh quốc tế

Thứ nhất, xu hướng tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và thực thi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, toàn cầu hóa vẫn tiếp diễn với những điểm khác các giai đoạn trước về tốc độ, phương cách và lĩnh vực, tốc độ chậm lại do mâu thuẫn giữa các nước lớn,  cuộc xung đột Nga – Ukraine, chính sách thuế của Mỹ...; trong đó tiến trình khu vực hóa ngày càng đóng vai trò quan trọng và sẽ dần thay thế tiến trình toàn cầu hóa.

Quá trình khu vực hóa được đẩy mạnh thông qua việc ký kết các FTA thế hệ mới liên kết nhiều quốc gia trong cùng khu vực và liên khu vực. Các FTA thế hệ mới có số lượng thành viên tham gia không ngừng được mở rộng, không chỉ trong từng khu vực mà mang tính liên khu vực, mức độ tự do hóa sâu sắc hơn, dần tiến đến tự do hóa thuế quan đối với hầu hết các mặt hàng xuất nhập khẩu với các đối tác thương mại chính, với các tiêu chí “FTA tiêu chuẩn cao”, phạm vi tự do hóa thương mại và cam kết rộng hơn, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại truyền thống về hàng hóa và dịch vụ mà còn bao gồm cả các lĩnh vực phi truyền thống như các vấn đề về đầu tư liên quan đến thương mại, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các vấn đề về lao động, công đoàn và môi trường, kể cả những cam kết trong nhiều lĩnh vực mới mà Việt Nam chưa từng cam kết mở cửa trước đây như doanh nghiệp nhà nước, mua sắm Chính phủ, vấn đề thể chế, chính sách pháp luật, cạnh tranh…

Các sáng kiến hợp tác khu vực, tiểu vùng như GMS, Hợp tác Mê Kông - Lan Thương, BRI... giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực đang định hình một mạng lưới cơ sở hạ tầng và các tuyến hành lang kinh tế kết nối Trung Quốc với các quốc gia Đông Nam Á theo hướng Bắc - Nam; kết nối các nước tiểu vùng Mê Kông theo hướng Đông - Tây. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành ký kết 18 FTA ở cấp độ song phương và khu vực, trong số đó, nổi bật nhất là 3 FTA thế hệ mới gồm Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA) và 1 FTA có quy mô lớn nhất thế giới trong khuôn khổ ASEAN là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP); đang đàm phán VN - EFTA FTA giữa Việt Nam và khối EFTA (Thụy Sỹ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein) và ASEAN - Canada (ACAFTA).

Thứ haixu hướng phát triển của tương quan lực lượng và chiến tranh thương mại giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực lớn sẽ tác động đến việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; đồng thời xu hướng cạnh tranh chiến lược, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng quyết liệt.

Trong giai đoạn 2020-2025 và dự báo đến năm 2030, Mỹ - Trung Quốc vẫn là cặp quan hệ nổi trội, chi phối các mối quan hệ khác. Quan hệ Mỹ - Trung Quốc vẫn có sự hợp tác, nhưng căng thẳng là xu thế nổi trội. Quốc hội và người dân Mỹ coi Trung Quốc là đối thủ mang tính “cơ cấu”, chính sách đối với Trung Quốc của Mỹ về cơ bản vẫn là “hợp tác khi có thể, cạnh tranh khi cần thiết, đối đầu khi bắt buộc”. Mỹ sẽ tiếp tục các cuộc chiến tranh thương mại, công nghệ quy mô lớn với Trung Quốc. Mục tiêu của Mỹ đến năm 2030 là kiểm soát sự “trỗi dậy” của Trung Quốc, ngăn Trung Quốc phá vỡ nguyên trạng ở khu vực, phá vỡ các “luật chơi” do Mỹ và đồng minh xây dựng. Về phần mình, Trung Quốc nỗ lực điều chỉnh chiến lược phát triển, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giảm phụ thuộc vào Mỹ, đầu tư mạnh cho phát triển công nghệ, trong đó có trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ 5G, trong khi Mỹ chỉ còn đi đầu trong một số lĩnh vực như: sản xuất vaccine, điện toán lượng tử và các hệ thống phóng không gian. Để kiểm soát Trung Quốc, Mỹ đang triển khai các biện pháp kiểm soát quan hệ song phương với Trung Quốc và thúc đẩy Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, đồng thời, tăng cường hợp tác chặt chẽ với Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) để ngăn Trung Quốc phát triển các loại chip cao cấp. Đổi lại, Trung Quốc đẩy mạnh bộ ba chiến lược, bao gồm: Sáng kiến Phát triển toàn cầu (GDI), Cộng đồng chung vận mệnh nhân loại và Sáng kiến An ninh toàn cầu (GSI), từng bước gia tăng ảnh hưởng ở khu vực Trung Đông, châu Phi, Mỹ La-tinh, Nam Á, Nam Thái Bình Dương; phối hợp chặt chẽ với Nga, Iran, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên, Mali, Uganda…

Quan hệ Mỹ - Nga, EU - Nga sẽ tiếp tục căng thẳng. Trong nhiều vấn đề, thế giới phân thành hai tuyến với một bên là Mỹ, phương Tây và bên kia là Trung Quốc, Nga. Các cuộc bỏ phiếu tại Đại hội đồng Liên hợp quốc liên quan đến cuộc xung đột Nga - Ukraine cho thấy, trong các vấn đề liên quan đến trật tự thế giới dựa trên luật pháp quốc tế, hầu hết các nước công khai ủng hộ Mỹ và phương Tây. Xu hướng này được cho là sẽ tiếp tục tăng lên khi trật tự thế giới và khu vực hiện nay ngày càng bị thách thức. Tam giác Mỹ - Trung Quốc - Nga không còn rõ nét do sức mạnh tổng hợp của Nga đang có một số dấu hiệu suy giảm (do cấm vận của Mỹ và phương Tây đối với Nga và xung đột tại Ukraine). Tuy nhiên, Nga vẫn giữ được mức độ độc lập nhất định nhờ tính tự cường của nền kinh tế, vị trí Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và là chủ sở hữu các công nghệ quân sự hiện đại cùng với kho vũ khí hạt nhân với 6.000 đầu đạn.

Cuộc xung đột Nga - Ukraine tiếp tục kéo dài và diễn biến phức tạp. Sự gia tăng căng thẳng địa chính trị kéo dài ở các khu vực Trung Đông, Hamas - Israel, tình hình căng thẳng chính trị giữa Mỹ - Iran, bất đồng nội bộ trong tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và trên bán đảo Triều Tiên, sự bất ổn chính sách gia tăng ở châu Âu và Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) hướng nội, bị chia rẽ sâu sắc hơn sau tiến trình Brexit, căng thẳng thương mại Hàn Quốc và Nhật Bản tiếp tục diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, biển Đông tiềm ẩn nguy cơ xung đột, bất ổn do một số nước đẩy mạnh thực hiện các yêu sách biển không phù hợp với luật pháp quốc tế.

Bên cạnh xu thế tăng cường vũ trang nổi lên ở một số khu vực, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra tại một số nơi, nhất là giữa các nước lớn và nước nhỏ, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế nổi trội vì nhân loại vẫn đầu tư nhiều hơn cho phát triển, các cuộc xung đột cục bộ ít khả năng lan rộng thành những cuộc chiến tranh lớn.

Thứ ba, sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ thương mại, khi mà thành quả của toàn cầu hóa không được phân chia đồng đều giữa các khu vực, các nền kinh tế là một trong những nguyên nhân dẫn tới xu hướng phản đối tự do hóa thương mại gia tăng mạnh ở nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm cả Mỹ và châu Âu, trong đó nổi bật là xu hướng tăng cường áp dụng các rào cản kỹ thuật trong thương mại nhằm bảo hộ mậu dịch và các ngành sản xuất trong nước.

Ngày càng nhiều nước quay trở lại chính sách thúc đẩy sản xuất hàng hóa công nghiệp để thay thế hàng nhập khẩu, thắt chặt quy định về tỷ lệ nội địa hóa và trợ giá hàng xuất khẩu, dựng nên các rào cản thương mại để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Chính sự không chắc chắn trong xu hướng điều chỉnh toàn diện chính sách thương mại theo hướng tăng cường bảo hộ mậu dịch của một số nước lớn, nhất là sự bất ổn gia tăng xung quanh chính sách thương mại của Mỹ và EU,  sẽ dẫn đến ảnh hưởng tiêu cực đối với tăng trưởng thương mại toàn cầu, trong đó tác động không nhỏ đến xuất khẩu của Việt Nam.

Hiện nay, một cuộc chiến tranh thương mại quy mô lớn đang có nguy cơ bùng phát khi các biện pháp thuế quan mới của chính quyền Mỹ đối với Trung Quốc, Canada và Mexico gây ra hàng loạt phản ứng mạnh mẽ tương tự từ các quốc gia chịu ảnh hưởng từ mức thuế mới này. Theo đó, Canada và đối tác thương mại lớn nhất của mình là Mỹ đã chính thức bước vào cuộc chiến thương mại quy mô lớn sau các tuyên bố áp thuế của lãnh đạo hai nước bắt đầu từ 4/2/2025. Bên cạnh các biện pháp thuế quan, Thủ tướng Trudeau cho hay, Canada đang xem xét áp dụng "các biện pháp phi thuế quan" đối với hàng xuất khẩu, bao gồm khoáng sản quan trọng, năng lượng và hoạt động mua sắm của Chính phủ. Tổng thống Mexico Claudia Sheinbaum cũng đã ra lệnh cho Bộ trưởng Kinh tế của mình thực hiện các biện pháp thuế quan và phi thuế quan để bảo vệ lợi ích của đất nước mình. Còn Trung Quốc cảnh báo sẽ kiện Mỹ lên Tổ chức Thương mại thế giới về vấn đề thuế quan, đồng thời khẳng định sẽ có những biện pháp đối phó tương ứng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Về phần mình, Nhà Trắng cho biết, sẽ tiếp tục tăng thuế nếu Mexico, Canada và Trung Quốc trả đũa. Những động thái đáp trả lẫn nhau này có thể tạo tiền đề cho cuộc chiến thương mại quy mô lớn, gây thiệt hại về kinh tế cho tất cả các bên và thế giới.

Thứ tư, xu hướng quan hệ, tập hợp lực lượng của các nước vừa và nhỏ để hạn chế tối đa ảnh hưởng của các cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn cũng như chiến tranh thương mại quy mô lớn giữa Mỹ, Trung Quốc và các nước. 

Khi cạnh tranh căng thẳng, các nước lớn, nhất là Mỹ và Trung Quốc sẽ gia tăng thúc ép, tranh thủ các nước vừa và nhỏ. Những năm gần đây, nhất là từ khi Nga thực hiện “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine, cách ứng xử của các nước có thể phân ra làm ba nhóm. Nhóm thứ nhất là các nước ủng hộ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, gần phương Tây, không lo ngại tác động của Trung Quốc và Nga. Trong nhóm này, ngoài các nước phương Tây, có khoảng 60 nước ở khu vực Trung Đông, châu Phi, châu Á và Mỹ La-tinh bỏ phiếu lên án Nga trong cuộc xung đột tại Ukraine, không ủng hộ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông tại các Hội nghị Phong trào Không liên kết. Nhóm thứ hai bao gồm các nước ủng hộ Trung Quốc và Nga. Ngoài CHDCND Triều Tiên, Syria, Belarus, Nicaragua ủng hộ Nga sáp nhập các tỉnh của Ukraine, nhóm này bao gồm một số nước, như Pakistan, Uganda, Zimbabwe, Mali,… luôn ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông tại các Hội nghị Phong trào Không liên kết. Nhóm thứ ba là các nước giữ thái độ trung lập, bao gồm 30 - 40 nước. Nhiều khả năng đến năm 2030, các nước vừa và nhỏ vẫn tập hợp lực lượng theo xu thế này, đa số đều tránh liên quan đến cuộc cạnh tranh giữa các nước lớn.

Việt Nam nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một khu vực tiếp tục được đánh giá là trung tâm tăng trưởng của thế giới (dự báo đến năm 2030, châu Á - Thái Bình Dương sẽ chiếm 52,5% GDP toàn cầu), nơi có ba nền kinh tế lớn thứ nhất (Trung Quốc), lớn thứ ba (Ấn Độ) và lớn thứ tư (Nhật Bản); đồng thời đây cũng là khu vực diễn ra cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc, do đó Việt Nam và các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ chịu sức ép ngày càng tăng từ cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc.

Tuy nhiên, ASEAN tiếp tục được các thành viên đánh giá là phương tiện hiệu quả để ứng phó với cạnh tranh nước lớn. ASEAN sẽ đoàn kết trong những vấn đề chung liên quan đến cả Mỹ và Trung Quốc, song khó có lập trường chung trong những vấn đề liên quan đến một nước (Mỹ hoặc Trung Quốc). Đây là những thách thức nội bộ đối với ASEAN đến năm 2030. Tuy nhiên, về tổng thể, Đông Nam Á vẫn giữ được môi trường hòa bình, kinh tế tăng trưởng và gia tăng liên kết khu vực.

Thứ năm, sự phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, xu hướng phát triển thương mại điện tử, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh và mang tính đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều tới nhiều lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu.

Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình và phương thức sản xuất kinh doanh. Cùng với đó là xu hướng phát triển thương mại điện tử, trong đó các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đẩy mạnh và phát triển thương mại điện tử, chuyển đổi số, do đó làm xuất hiện nhiều phương thức kinh doanh thương mại mới, dần thay thế các phương thức kinh doanh truyền thống. Thị trường thương mại điện tử vì thế cũng được mở rộng, mô hình thương mại điện tử ngày càng đổi mới, các chuỗi cung ứng truyền thống với sự hỗ trợ của số hóa và công nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng thông minh, đem lại hiệu quả cho các doanh nghiệp kinh doanh thương mại và sự phát triển thương mại điện tử nói riêng, cũng như nền kinh tế số nói chung.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của nhân loại, làm gia tăng mức độ cạnh tranh, chạy đua giữa các nước, gia tăng phân hóa giữa các nước giàu và nghèo. Cùng với cạnh tranh địa - chính trị Mỹ - Trung Quốc, Mỹ, phương Tây - Trung Quốc, Nga, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 làm trầm trọng hơn xu hướng phân mảng, chia rẽ, nhất là chia rẽ số giữa các nước, các nhóm nước, gây ra những tác động lâu dài đối với cục diện thế giới và khu vực. Các phương thức và lĩnh vực liên quan đến vận tải, di chuyển vật chất toàn cầu suy giảm, nhường chỗ cho những phương thức, lĩnh vực phi vật chất theo hướng gia tăng tính bền vững của các chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu, hướng vào các lĩnh vực xanh và chuyển đổi số. Trong tương lai, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa, đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp và nền kinh tế ở mọi quốc gia, đồng thời giúp vẽ lại bản đồ kinh tế thế giới với sự suy giảm quyền lực của các quốc gia đang phát triển dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên, lao động và sự gia tăng sức mạnh của các quốc gia phát triển dựa chủ yếu vào công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Thứ sáu, trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh, chuyển dịch năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn và trở thành xu hướng tất yếu, mục tiêu ưu tiên trong quá trình phát triển kinh tế của nhiều nước, cả các nước phát triển như EU, Mỹ, Nhật Bản và các nước đang phát triển nhằm ứng phó với khủng hoảng, thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển hậu khủng hoảng và đối phó với các vấn đề môi trường - xã hội. Bên cạnh những cơ hội mới cũng đặt ra thách thức lớn về tăng cường sự thích ứng, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo ra những áp lực, làm giảm năng lực cạnh tranh, hạn chế tiếp cận thị trường đối với những quốc gia không theo kịp xu thế này.

Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc có ảnh hưởng lớn đến phương thức tăng trưởng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư trên thế giới, trong đó nhấn mạnh chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, năng lượng xanh sẽ là xu thế rõ nét hơn trong thời kỳ tới. Chính vì vậy, đầu tư cho tăng trưởng xanh sẽ chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị các gói kích thích kinh tế toàn cầu và sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới, trong đó mỗi quốc gia sẽ có cách tiếp cận riêng và cần có kế hoạch hành động riêng để thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 khó có thể đạt được do thiếu sự ủng hộ chính trị và đóng góp nguồn lực của nhiều nước, nhất là các nước lớn, các nước giàu. Tuy nhiên, tăng trưởng xanh sẽ trở thành xu thế nổi trội do nhu cầu tự thân của các nước (trước nguy cơ từ biến đổi khí hậu) và sự áp đặt của các nước phát triển, nhất là các nước EU, thông qua những tiêu chuẩn về thương mại liên quan đến bảo vệ môi trường.

Xu hướng chuyển dịch năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng sạch góp phần chống biến đổi khí hậu trên thế giới là xu hướng tất yếu của nhân loại. Có thể nói năng lượng sạch đã giúp nhiều quốc gia khắc phục tình trạng thiếu điện, đảm bảo an ninh năng lượng. Việc phát triển năng lượng sạch là một trong những ưu tiên hàng đầu trong mục tiêu cấp bách về hành động chống biến đổi khí hậu của các nước. Chuyển đổi năng lượng và phát triển năng lượng sạch đã và đang trở thành xu thế tất yếu trong phát triển năng lượng, phát triển nguồn điện và là lĩnh vực trụ cột trong hợp tác quốc tế hướng tới phát triển bền vững trên thế giới hiện nay.

Thứ bảy, xu hướng gia tăng các thách thức an ninh phi truyền thống, an ninh nguồn nước, an ninh mạng, tội phạm có tổ chức, đặc biệt là các vấn đề về xã hội, chênh lệch giàu nghèo và ô nhiễm môi trường gia tăng trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa; dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, suy thoái đất đai, nước biển dâng, xâm nhập mặn… diễn biến ngày càng khó lường, vượt khỏi năng lực kiểm soát của từng quốc gia và tác động đến sự ổn định, phát triển của toàn thế giới, do đó đòi hỏi sự phối hợp trong phạm vi khu vực và toàn cầu.

Hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục là chủ đề nổi trội tại các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực, trong đó phần lớn các nước, nhất là các nước đảo nhỏ, các nước khu vực sa mạc Sahara ở châu Phi, coi đây là thách thức an ninh. Bên cạnh đó, vấn đề an ninh lương thực toàn cầu còn đang tiềm ẩn nhiều rủi ro do các chính sách hạn chế xuất khẩu của một loạt quốc gia xuất khẩu lương thực chính gây tác động đến giá lương thực và chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.

Tóm lại, trong thời gian tới, dự báo tình hình chính trị - an ninh thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và trong khu vực giữa Mỹ - Trung, Mỹ - Nga, Trung - Ấn… tiếp tục diễn ra gay gắt, tạo môi trường địa chính trị bất ổn, làm suy yếu lòng tin của thị trường và các nhà đầu tư. Biến động chính sách kinh tế vĩ mô, khả năng điều chỉnh chính sách tiền tệ, thương mại, đầu tư của các nền kinh tế lớn cũng có ảnh hưởng đến thị trường tài chính quốc tế và tăng trưởng kinh tế, thương mại toàn cầu. Chính sách bảo hộ thương mại và xu hướng giảm phụ thuộc vào Trung Quốc trong chuỗi cung ứng tiếp tục lan rộng, ảnh hưởng đến dòng đầu tư FDI toàn cầu… Do đó, triển vọng tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu năm 2026 và trong ngắn hạn còn nhiều rủi ro và thách thức, thiếu động lực để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

1.2. Bối cảnh trong nước

Thứ nhất, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và khá toàn diện trong phát triển kinh tế trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và giai đoạn 5 năm 2020-2025, trong đó quá trình cải cách thể chế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu đã đạt những kết quả tích cực, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên đổi mới tư duy, chuyển từ tư duy mệnh lệnh, hành chính sang tư duy kỹ thuật, chú trọng đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và phát triển khoa học - công nghệ, xây dựng Nhà nước “kiến tạo phát triển”, cùng với những chính sách khuyến khích phát triển giúp mở rộng không gian tăng trưởng, tăng cường hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ hai, tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt, tạo môi trường hấp dẫn để thu hút đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều, vị thế chính trị của Việt Nam trong khu vực ASEAN và thế giới ngày càng được nâng cao; độ mở nền kinh tế cao thông qua đẩy mạnh hội nhập quốc tế và mở rộng tự do hóa, thực hiện cam kết về mở cửa thị trường trong các FTA thế hệ mới mang lại những tác động tích cực trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho phát triển kinh tế.

Thứ ba, Việt Nam đang đẩy mạnh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, qua đó tạo lập các điều kiện thị trường bình đẳng khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh. Các quy định pháp luật mới được triển khai tích cực, sớm đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, giúp tháo gỡ nhiều vướng mắc trong đầu tư, xây dựng và sản xuất, kinh doanh; môi trường kinh doanh trong nước đang dần được cải thiện với nỗ lực thực thi các chính sách và luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp sửa đổi, Luật Đầu tư sửa đổi, Luật Cạnh tranh sửa đổi, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu... Khu vực tư nhân đang từng bước được củng cố, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp được nâng lên, đóng góp ngày càng lớn và trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Trong năm 2026, Chính phủ tiếp tục tăng cường đầu tư công, đặc biệt là đầu tư vào hạ tầng giao thông, năng lượng, logistics. Đây là những tiền đề quan trọng cho tăng trưởng kinh tế nói chung và cho phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và xuất nhập khẩu nói riêng...

Đáng chú ý, các chủ trương, quyết sách lớn được ban hành và triển khai trong năm 2025 sẽ bắt đầu phát huy hiệu quả trong năm 2026, đặc biệt là 4 Nghị quyết là “Bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị[1] cùng với các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ để triển khai Nghị quyết sẽ tạo ra những đột phá giúp nước ta cất cánh để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số từ năm 2026.

Thứ tư, việc triển khai chính quyền địa phương 2 cấp kể từ 1/7/2025 cùng với đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý nhà nước không chỉ giúp nâng cao hiệu quả trong quản lý và điều hành phát triển kinh tế - xã hội, tăng khả năng phản ứng linh hoạt với yêu cầu phát triển thực tế mà còn thúc đẩy liên kết vùng, đầu tư công, sản xuất công nghiệp và xuất khẩu, tạo ra các “cực tăng trưởng” mới trong vùng; đồng thời, giúp giảm chi phí thủ tục, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện để kinh tế Việt Nam tăng tốc trong năm 2026 và những năm tiếp theo, nhất là trong bối cảnh quốc tế còn nhiều thách thức.

Năm 2026 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Đặc biệt, năm 2026 cũng là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026-2030, đánh dấu điểm khởi đầu của Kế hoạch 5 năm nhằm tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số. Do vậy, trong năm 2026 và những năm tới đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị cùng các doanh nghiệp, người dân để ứng phó với những thách thức toàn cầu nhằm đạt mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân. Cùng với đó là sự nỗ lực thực hiện những đột phá về cải cách thể thể, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh để tạo ra làn sóng đầu tư lớn vào các dự án trọng điểm, công nghệ mới và đổi mới sáng tạo, hướng tới thúc đẩy phát triển bền vững, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường.

Thứ năm, phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam trong giai đoạn tới sẽ phải đương đầu với những khó khăn, thách thức đến từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục; xu hướng tụt hạng năng lực cạnh tranh, bất chấp GDP liên tục tăng, có thể làm trầm trọng thêm thực tế “tụt hậu xa hơn” của nền kinh tế, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn rất lớn. Đó là sự thiếu thốn về nguồn lực tài chính, vốn đầu tư; khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực phát triển; cơ sở hạ tầng chậm được nâng cấp, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu; năng lực quản lý của các doanh nghiệp còn hạn chế, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao và có kỹ năng chuyên môn dẫn đến năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của các doanh nghiệp chưa cao; quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo còn chậm, chưa tận dụng được thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ sáu, xu hướng gia tăng các thách thức an ninh phi truyền thống, đặc biệt là các vấn đề về xã hội như xóa đói giảm nghèo, già hóa dân số nhanh dẫn đến áp lực lên hệ thống an sinh xã hội, chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực thành thị, nông thôn và vùng sâu, vùng xa, miền núi; các vấn đề về môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn, thiên tai, dịch bệnh… tiếp tục diễn biến khó lường, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và cuộc sống người dân, cộng thêm quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa tạo sức ép lớn đối với phát triển cơ sở hạ tầng và xử lý ô nhiễm môi trường.

Tóm lại, bối cảnh trong nước và quốc tế mới đặt ra yêu cầu cần thay đổi mạnh mẽ về mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, mục tiêu chủ đạo là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính, đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó phát triển kinh tế, thương mại bền vững và tham gia hiệu quả vào mạng lưới sản xuất, cung ứng toàn cầu.

2. Thách thức và một số vấn đề đặt ra

Bên cạnh những cơ hội phát triển mới mang tính tiềm năng và phụ thuộc vào năng lực nắm bắt cơ hội và hiệu quả hội nhập của Việt Nam, phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam đứng trước những thách thức hiện hữu to lớn do tình hình kinh tế và thương mại thế giới tiếp tục biến đổi nhanh và khó lường.

- Trước hết, từ góc độ thách thức trong quan hệ với các nước lớn, trong vòng 5 - 10 năm tới, các nước lớn tuy vẫn hợp tác nhưng cạnh tranh, thậm chí đối đầu, căng thẳng hơn nhiều so với giai đoạn 5 - 10 năm qua, nhất là trong những vấn đề liên quan đến địa - chính trị, an ninh - quân sự, khoa học - công nghệ…, do đó cạnh tranh giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc, vừa gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình thúc đẩy quan hệ với từng nước, vừa làm suy giảm cách tiếp cận đa phương, nhất là với các tổ chức đa phương mà Việt Nam đã và đang hội nhập.

- Với độ mở kinh tế ở mức cao, năng lực phản ứng chính sách còn hạn chế, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng khiến nền kinh tế Việt Nam dễ bị tổn thương do tác động của các yếu tố bên ngoài, áp lực cạnh tranh trên thị trường thế giới và trong nước ngày càng khốc liệt. Bên cạnh đó, xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại khiến hàng hóa xuất khẩu phải đáp ứng quy định, tiêu chuẩn ngày càng cao và khắt khe của các thị trường nhập khẩu, nhất là các biện pháp bảo hộ mậu dịch phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật, tiêu chuẩn kiểm dịch, vệ sinh, môi trường, xã hội, quy tắc xuất xứ và các quy định về phòng vệ thương mại, chống bán phá giá... Nếu Việt Nam không nỗ lực cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu của thị trường thế giới, thì việc tận dụng cơ hội của hội nhập để mở rộng thị trường xuất khẩu là hết sức hạn chế.

- Việc tham gia các FTA thế hệ mới mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, tuy nhiên việc thực thi cam kết cũng đặt ra nhiều thách thức do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các DNNVV còn yếu, năng lực tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn chế. Việc vươn lên các nấc thang mới trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu là một trong những thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.

- Xu hướng dịch chuyển luồng đầu tư của các nước công nghiệp phát triển ra khỏi Trung Quốc trong bối cảnh gia tăng xung đột thương mại Mỹ - Trung đặt ra thách thức rất lớn đối với Việt Nam, bởi chúng ta sẽ phải nỗ lực vượt bậc để tái cấu trúc nền kinh tế, cải cách thể chế quản lý kinh tế, đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cũng như tăng cường các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Hơn nữa, quá trình này phải được hoàn tất trong một thời gian ngắn để không bỏ lỡ “thời cơ lịch sử” đang tới nhằm thu hút đầu tư của các nước công nghiệp phát triển, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các nhóm hàng chủ lực.

- Xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài khỏi Trung Quốc có thể là nguy cơ biến Việt Nam thành “bãi thải” công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, kể cả việc hàng Trung Quốc kém chất lượng, không an toàn có thể tràn sang khi Việt Nam chưa có các rào cản và biện pháp phòng vệ thương mại hữu hiệu, do đó khó chuyển dịch lên các nấc thang cao hơn trong chuỗi giá trị và bị phụ thuộc, tăng nhập siêu từ Trung Quốc. Mặt khác, chúng ta còn phải chủ động đối phó với những hành vi gian lận thương mại khi Trung Quốc lợi dụng ưu đãi xuất xứ của Việt Nam để xuất khẩu sang các nước thứ ba, trong đó việc xuất siêu lớn của Việt Nam sang Mỹ có thể dẫn đến những rủi ro và nguy cơ về việc Mỹ tăng thuế và các biện pháp bảo hộ khác đối với hàng xuất khẩu Việt Nam.

- Trong những năm tới, xu hướng cạnh tranh chiến lược, chiến tranh thương mại giữa hai cường quốc lớn Mỹ và Trung Quốc sẽ tiếp tục gia tăng và tác động tới toàn bộ cục diện chính trị, an ninh thế giới, trước hết là khu vực Đông Nam Á - nơi đang và sẽ là tâm điểm cạnh tranh giữa các cường quốc. Bối cảnh này tạo ra cơ hội và không ít thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam trong việc phải nhanh chóng tổ chức lại sản xuất để đáp ứng tiêu chuẩn ngày càng cao của thị trường nhập khẩu, đẩy mạnh thương mại, tăng cường xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, cũng như các sản phẩm nông nghiệp, lâm sản, thủy sản, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng sang hai thị trường lớn nhất thế giới này.

- Cuộc xung đột Nga - Ukraine tiếp tục kéo dài và diễn biến phức tạp đã và đang có những tác động sâu sắc đến nền kinh tế, tài chính thế giới, cùng với hàng loạt lệnh cấm vận của quốc tế đối với Nga sẽ khiến dòng chảy thương mại toàn cầu bị ảnh hưởng, nguy cơ gián đoạn nguồn cung, đứt gãy chuỗi sản xuất toàn cầu ở nhiều lĩnh vực quan trọng, trong đó có năng lượng và xuất nhập khẩu, tác động lớn đến hoạt động cung ứng các loại hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, làm tăng chi phí vận tải, chi phí dịch vụ logistics, tăng giá các mặt hàng xăng dầu, nguyên vật liệu, lương thực và thực phẩm, nhất là lúa mì và ngô, do đó ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam với hai thị trường này, nhất là thách thức lớn về nguồn cung ứng than và phân bón khi lượng hàng được nhập từ Nga khá lớn (chiếm 12% và 10% tổng kim ngạch nhập khẩu).

Bên cạnh đó, các biện pháp trừng phạt Nga của Hoa Kỳ và các nước phương Tây cũng như các biện pháp trả đũa kinh tế của Nga cũng sẽ ảnh hưởng tới những nỗ lực kết nối và thúc đẩy quan hệ thương mại - đầu tư của Việt Nam với Liên bang Nga và Liên minh hải quan Nga - Belarus - Kazakhstan, khi mà các dự án đầu tư của Nga tập trung chủ yếu vào lĩnh vực năng lượng, một lĩnh vực quan trọng và có đóng góp nhiều vào ngân sách, lao động và đảm bảo an ninh năng lượng của Việt Nam. Việc Nga bị loại khỏi hệ thống của SWIFT đã và đang có tác động nhất định tới hoạt động kinh tế và giao thương của Việt Nam, hơn nữa khi đồng Ruble mất giá cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.

- Sự phát triển của kinh tế tri thức, trong đó quan trọng nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ sẽ có những tác động nhiều mặt đối với chủ trương phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam, theo đó, Việt Nam có thể thông qua nhiều phương thức để rút ngắn quá trình phát triển, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù, trình độ phát triển của Việt Nam nên việc thực hiện các cam kết về phát triển bền vững sẽ gặp một số khó khăn, thách thức. Hơn nữa, thách thức và áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng tăng lên trong bối cảnh tiềm lực khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, sự phát triển lực lượng sản xuất của Việt Nam còn nhiều hạn chế. 

- Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra bốn thách thức lớn cho Việt Nam: 1- Thách thức an ninh mạng sẽ gia tăng; 2- Các doanh nghiệp Việt Nam khó tham gia chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu do năng lực và mức độ sẵn sàng còn thấp; 3- Cơ hội thu hút FDI có thể giảm đi so với trước; 4- Đội ngũ lao động Việt Nam bị tác động do việc làm bị thay thế bởi người máy và xu hướng chuyển đầu tư về gần thị trường tiêu thụ, cơ hội học tập bị suy giảm do công việc ngày càng đơn giản hóa.

Việt Nam sẽ gặp những khó khăn trong việc tiếp thu thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi mà nhận thức và sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp về cuộc cách mạng này còn hạn chế; hạ tầng kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp của ngành Công Thương mặc dù đã được chú trọng, tuy nhiên chưa đảm bảo sẵn sàng đáp ứng được những yêu cầu của cuộc cách mạng này; còn nhiều thách thức từ những yếu kém nội tại của các doanh nghiệp xuất khẩu, với đại đa số vẫn là doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, trình độ quản trị và vận hành còn chưa đồng đều, nguồn nhân lực có chất lượng cả về kinh nghiệm điều hành, quản lý theo chuỗi và trình độ chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế.

- Trong thời kỳ đổi mới, trước sự tác động của các vấn đề toàn cầu, các vấn đề thuộc về an ninh phi truyền thống đã có những diễn biến phức tạp, tác động đến sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Trong các vấn đề thuộc về an ninh phi truyền thống mà Việt Nam đã, đang và có thể sẽ phải giải quyết, đó là vấn đề biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và an ninh nguồn nước ở một số khu vực ở trong nước, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống có thể làm cho năng lực của hệ thống quản trị được tăng cường, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Ngoài ra, sự biến đổi về cơ cấu xã hội dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cộng thêm sự chống phá của các thế lực thù địch đối với Đảng, Nhà nước đã tác động không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Tóm lại, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi cơ bản trong phát triển kinh tế, thương mại trong bối cảnh mới, còn tồn tại nhiều khó khăn, thách thức đan xen, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại đã kéo dài nhiều năm, do đó đòi hỏi các cấp Chính phủ, Bộ ngành, địa phương, doanh nghiệp tuyệt đối không được chủ quan, phối hợp hành động quyết liệt, hiệu quả hơn nữa nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra về phát triển kinh tế và thương mại bền vững.

3. Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm

Trong giai đoạn tới, để hoàn thành các mục tiêu về phát triển kinh tế, thương mại, cần có sự nỗ lực, phối hợp, đồng sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp. Đối với ngành Công Thương, một số định hướng, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm trong phát triển thương mại bền vững trong giai đoạn tới được đề xuất như sau:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển công nghiệp - thương mại hiện đại, tương thích với các cam kết quốc tế; tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp, triển khai thiết thực, hiệu quả các Nghị quyết, Chương trình, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, mục tiêu là tạo lập hệ thống chính sách phát triển công nghiệp đồng bộ, hiện đại, có khả năng thích ứng cao với các vấn đề mới toàn cầu. Đổi mới chính sách phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp mới nổi, công nghiệp hỗ trợ theo hướng cụ thể, minh bạch, có trọng tâm, trọng điểm nhằm tập trung nguồn lực phát triển công nghiệp theo từng giai đoạn.

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại, minh bạch và công bằng, đảm bảo môi trường kinh doanh không có sự phân biệt giữa kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; khuyến khích phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân tận dụng tối đa tiềm năng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu với đối tác từ các nước lớn.

Đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính, đẩy mạnh số hóa thủ tục hải quan xuất nhập khẩu, ứng dụng công nghệ thông tin, tháo gỡ các điểm nghẽn về hành chính, tạo môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Thứ hai, đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm thu hút hiệu quả nguồn vốn từ các thành phần kinh tế vào sản xuất công nghiệp; ban hành cơ chế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài “thế hệ mới”, đón đầu các xu hướng đầu tư, dịch chuyển chuỗi cung ứng từ các quốc gia, đối tác chiến lược, đặc biệt là đầu tư vào các ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp môi trường, công nghiệp hỗ trợ và các công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung ứng; đẩy mạnh chuyển đổi xanh và kinh tế tuần hoàn.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển thương mại trong bối cảnh mới, nhất là nguồn nhân lực trong lĩnh vực hội nhập kinh tế quốc tế, gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; chú trọng đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý thương mại có đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập.

Tiếp tục rà soát, điều chỉnh và quy hoạch lại hệ thống đào tạo ngành Công Thương theo hướng đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, phù hợp với xu hướng phát triển trong bối cảnh mới. Mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn tài trợ nước ngoài về vốn, chuyên gia kỹ thuật để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài tiến hành đào tạo tại chỗ thường xuyên, liên tục để nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lực lượng lao động trong nước, tiếp thu các mô hình quản trị chuỗi cung ứng và phương thức kinh doanh tiên tiến. Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng phương pháp quản lý hiện đại, tham gia tích cực hơn vào chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu.

Thứ tư, thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thực hiện tốt Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo quá trình quản trị sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, trong đó chú trọng đến các công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (Trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, IoT, in 3D, vật liệu mới...). Nâng cao năng lực các viện nghiên cứu trọng điểm, hình thành các trung tâm, các hệ sinh thái phát triển công nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong sản xuất công nghiệp; khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, thực hiện chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng hiệu quả.

Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, hạ tầng chuyển đổi số trong ngành Công Thương như hạ tầng điện (nguồn điện và lưới điện), hạ tầng thương mại, hạ tầng logistics, hạ tầng công nghiệp (cụm công nghiệp)… Tăng cường nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, cảng biển, mạng lưới kho bãi, vận tải thông minh, phát triển các loại hình dịch vụ logistics, giảm chi phí logistics, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong logistics, chú trọng phát triển logistics cho thương mại điện tử, phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới.

Thúc đẩy phát triển các trung tâm logistics quốc gia; thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện ngành công thương, xây dựng hạ tầng số, dữ liệu số ngành công thương; hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ AI, IoT, blockchain vào sản xuất - logistics - thương mại.

Thứ sáu, tập trung thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực và trong nội ngành công nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh, tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế.

Triển khai hiệu quả quy hoạch phát triển quốc gia, quy hoạch ngành, vùng và địa phương, tạo không gian phát triển công nghiệp khoa học, thống nhất, thúc đẩy phát triển các mô hình hợp tác, liên kết sản xuất công nghiệp hiện đại theo chuỗi giá trị trong nội vùng, liên vùng; hình thành cụm liên kết - chuỗi giá trị - trung tâm đổi mới sáng tạo ngành. Hình thành các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp tư nhân ngành công nghiệp có quy mô lớn, đa sở hữu, có vị thế và năng lực cạnh tranh trong khu vực và thế giới. 

Thứ bảy, tăng cường quản lý nhà nước trong tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu nhằm tạo thuận lợi thương mại, chống gian lận thương mại và hướng tới thương mại công bằng, tăng trưởng xanh, tăng trưởng bền vững.

Đa dạng hóa thị trường và đối tác xuất nhập khẩu, tăng cường quản lý cạnh tranh và phòng vệ thương mại, tránh phụ thuộc vào một số thị trường và tăng tính chủ động về nguyên liệu, thiết bị phục vụ sản xuất công nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp tục phát triển các thị trường