Khu vực kinh tế chưa được quan sát của một số nước và bài học cho Việt Nam
09:37 - 03/03/2021
TS.Lê Huy Khôi; ThS. Hoàng Thị Vân Anh; CN. Tưởng Thị Thanh Vinh
Viện Nghiên cứu Chiến lược Chính sách Công Thương
Tóm tắt[1]: Khu vực kinh tế chưa được quan sát (Non - Observed Economy - NOE) hiện hữu ở tất cả các nền kinh tế trên thế giới, dù là phát triển hay đang phát triển, với quy mô và tác động khác nhau tới toàn bộ nền kinh tế và đời sống xã hội của quốc gia. Khác với khu vực kinh tế quan sát được hay khu vực kinh tế chính thức có thể thống kê, tổng hợp và kiểm soát được, thì khu vực NOE chưa thể thống kê, tổng hợp đầy đủ, chính xác và kiểm soát một cách hiệu quả. Hiện khu vực kinh tế chưa được quan sát rất đa dạng, phức tạp, tồn tại trong nhiều lĩnh vực, dưới nhiều hình thức và được các chuyên gia gọi dưới nhiều tên gọi khác nhau như kinh tế bóng, kinh tế ngầm, kinh tế phi chính thức…
Khu vực NOE có những ảnh hưởng tích cực tới toàn bộ nền kinh tế, trong đó phải kể tới việc tạo thu nhập, sinh kế, việc làm cho người lao động, nhất là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, đồng thời tạo ra tính linh hoạt, năng động và giúp khu vực kinh tế chính thức thích ứng tốt hơn trước những cú sốc của thị trường... Tuy nhiên, hiện nay, yếu tố quản lý đang quan tâm nhiều hơn tới những mặt tiêu cực của khu vực NOE trong các vấn đề về quyền lợi tối thiểu của người lao động và điều kiện tiếp cận các dịch vụ thiết yếu của người lao động không được đảm bảo, các hoạt động kinh tế phạm pháp, hoạt động buôn bán hàng cấm, hàng giả, buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế... gây méo mó cạnh tranh, thất thu ngân sách, làm giảm năng suất lao động của nền kinh tế, giảm thu nhập bình quân đầu người và có thể gây ra bất ổn kinh tế, xã hội.
Bài viết này tập trung nghiên cứu, tìm hiểu về khu vực kinh tế chưa được quan sát của một số nước châu Á là Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan và đưa ra một số bài học kinh nghiệm và hàm ý cho Việt Nam.
Từ khóa: Khu vực kinh tế chưa quan sát được, NOE, quản lý, kinh nghiệm, ngành Công Thương
- Tổng quan khu vực kinh tế chưa được quan sát của một số nước
1.1. Trung Quốc
Khu vực NOE của Trung Quốc chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng 11-17% GDP của nước này (IMF, WP18/17- Tháng 1/2017) và có vai trò quan trọng trong việc tạo sinh kế, thu nhập và việc làm cho người lao động, đặc biệt là đối với những vùng kém phát triển hơn của Trung Quốc, như vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi và những vùng nông thôn xa xôi của Trung Quốc. Nghiên cứu mới đây của Menggen Chen, Shuai Zhang (2020) đã chỉ rõ hơn về sự khác biệt này, theo đó khu vực NOE phân bố không đồng đều giữa các vùng/tỉnh của Trung Quốc, NOE chỉ chiếm mức thấp nhất là 3,19% GDP ở Bắc Kinh, trong khi lên tới mức cao nhất là 69,71% ở Ninh Hạ. Trong khi, tỷ lệ trung bình toàn Trung Quốc là 43,11%, thì tỷ lệ NOE của khu vực phía Đông, miền Trung, Đông Bắc và khu vực phía Tây lần lượt là 39,3%, 47,6%, 44,7% và 43,6%. Các ước tính cho thấy, NOE có mối tương quan ngược chiều với GDP và GDP/người đo lường được, điều này cho thấy các khu vực phát triển hơn có xu hướng có quy mô NOE nhỏ hơn.Theo một nghiên cứu của Hailin Chen và Friedrich Schneider (2018) về NOE của Trung Quốc thời kỳ 1978-2016 cho thấy, quy mô NOE của nước này đã thay đổi rất nhiều, sau thời gian tăng mạnh từ mức 18,44% GDP năm 1978 lên mức 32,16% GDP năm 1989, sau đó đã giảm mạnh chỉ còn chiếm 4,27% vào năm 2016. Áp dụng phương pháp nhu cầu tiền tệ, Hailin Chen và Friedrich Schneider (2018) đã xây dựng hai mô hình nhu cầu tiền tệ ổn định để đo lường quy mô khu vực NOE của Trung Quốc (bảng 1). Mô hình 1 và 2 dựa trên cơ sở lượng tiền mặt bình quân đầu người cho kết quả là khu vực NOE của Trung Quốc trong thời kỳ 10 năm 2007 - 2016 đạt quy mô lớn nhất vào năm 2008, chiếm 11,5% GDP và giảm dần xuống mức thấp nhất là 4,27% GDP vào năm 2016. Đối với Mô hình 3, cách tiếp cận dựa trên nhu cầu tiền mặt và theo cách tiếp cận này, quy mô NOE của Trung Quốc khá nhỏ và có xu hướng giảm khá nhiều trong thời gian 2007 - 2016, từ mức 5,4% GDP năm 2007, NOE đã giảm chỉ còn chiếm 2,07% GDP năm 2016.
Bảng 1: Quy mô NOE ở Trung Quốc 2007-2016 (%GDP)
Năm | Mô hình 1(LnMOPC) | Mô hình 2 (LnMOPC) | Mô hình 3 ( LnM0M2) | |||
Kết quả gốc | Kết quả hiệu chuẩn | Kết quả gốc | Kết quả hiệu chuẩn | Kết quả gốc | Kết quả hiệu chuẩn | |
2007 | 13,43 | 11,26 | 13,12 | 11,80 | 6,24 | 5,40 |
2008 | 13,72 | 11,53 | 13,36 | 12,02 | 6,22 | 5,38 |
2009 | 10,70 | 8,80 | 10,53 | 9,36 | 5,14 | 4,40 |
2010 | 10,58 | 8,69 | 10,41 | 9,25 | 4,55 | 3,88 |
2011 | 9,75 | 7,95 | 9,72 | 8,61 | 4,41 | 3,74 |
2012 | 9,85 | 8,04 | 9,83 | 8,70 | 4,60 | 3,91 |
2013 | 8,81 | 7,12 | 8,83 | 7,78 | 4,10 | 3,47 |
2014 | 7,44 | 5,92 | 7,61 | 6,65 | 3,64 | 3,06 |
2015 | 6,28 | 4,93 | 6,45 | 5,59 | 3,01 | 2,50 |
2016 | 5,51 | 4,27 | 5,69 | 4,90 | 2,51 | 2,07 |
Nguồn: Hailin Chen và Friedrich Schneider (2018)
Có thể thấy, quy mô NOE của Trung Quốc dựa trên các nghiên cứu khác nhau với các cách tiếp cận và lựa chọn mô hình định lượng khác nhau cho kết quả rất khác nhau: các nghiên cứu tiếp cận theo nhu cầu tiền tệ cho kết quả là quy mô NOE ở Trung Quốc nhỏ nhất, còn cách tiếp cận của Menggen Chen, Shuai Zhang lại cho kết quả NOE ở Trung Quốc là khá lớn. Tuy nhiên, tất cả các kết quả nghiên cứu định lượng đều cho thấy xu hướng giảm NOE ở Trung Quốc thời gian gần đây và những vùng chậm phát triển hơn có xu hướng quy mô NOE lớn hơn các vùng kinh tế phát triển nhanh hơn.Trong nghiên cứu của Hailin Chen và Friedrich Schneider, sử dụng 5 biến lựa chọn là trả thuế, cường độ điều tiết, tỷ lệ việc làm trong ngành nông nghiệp, phân cấp thu chi tài chính để nắm bắt nhu cầu tiền tệ của NOE ở Trung Quốc cho thấy, NOE chịu tác động ổn định của tất cả các biến này, tuy nhiên, vai trò tác động của các nhân tố này khác nhau qua từng thời kỳ. Ví dụ, cường độ điều tiết và việc làm trong nông nghiệp tác động rất mạnh vào thời kỳ đầu nghiên cứu, đến khi môi trường quy định được cải thiện và việc làm giảm trong ngành nông nghiệp, thì gánh nặng thuế và phân cấp thu chi tài chính lại đóng vai trò quan trọng hơn tới giảm quy mô NOE. Từ đó, có những gợi ý chính sách quan trọng đối với chính phủ trong nỗ lực giảm quy mô NOE như giảm gánh nặng thuế, cải tiến chất lượng chính phủ, phân cấp thu chi tài chính, thực hiện chính phủ điện tử, ứng dụng AI, IoT, minh bạch quy định, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, các biện pháp phòng chống tham nhũng… là những yếu tố có tác động thu hẹp quy mô NOE và chính thức hóa khu vực NOE.
1.2. Ấn Độ
Khu vực NOE của Ấn Độ là xương sống của nền kinh tế với khoảng một nửa GDP, đồng thời sử dụng phần lớn lực lượng lao động xã hội của nước này (88% lực lượng lao động - OECD, 2015). Với tầm quan trọng rất lớn của khu vực NOE, chính phủ Ấn Độ đã thực hiện nhiều biện pháp chính sách nhằm tăng cường quản lý, giám sát khu vực NOE, nổi bật là các vấn đề về quản lý lao động và thu hẹp quy mô, phạm vi NOE, nhưng vẫn phát huy được mặt tích cực của khu vực này phục vụ tăng trưởng kinh tế và tăng phúc lợi xã hội, cộng đồng. Tuy nhiên, những khó khăn trong quản lý khu vực NOE của Ấn Độ phải kể tới, đó là (i) khó có được số liệu thống kê đáng tin cậy và cập nhật, ngay cả đối với khu vực kinh tế chính thức; (ii) còn thiếu sự quan sát cẩn thận của các cơ quan chính phủ đối với khu vực NOE, nhất là vấn đề đo lường quy mô khu vực NOE, mối quan hệ tác động qua lại giữa khu vực kinh tế quan sát được và NOE…(iii) Hệ thống luật pháp lao động của Ấn Độ phức tạp và hiệu lực thi hành chưa cao, còn nhiều vi phạm nhưng không bị trừng phạt. Đối với vấn đề đo lường quy mô của khu vực NOE, chính phủ Ấn Độ cũng đang phải nỗ lực thực hiện cải thiện các biện pháp và cách thức nhằm đo lường, ước lượng một cách chính xác, thực chất hơn về khu vực NOE phục vụ cho việc hoạch định chính sách thiết thực, hiệu quả phát triển kinh tế xã hội chung, bao trùm cả khu vực này. Theo đó, thay vì các cuộc điều tra doanh nghiệp trước đây chỉ được thực hiện 5 năm một lần, không phù hợp với thực tiễn biến đổi nhanh và tính năng động của khu vực NOE, khiến cho việc đưa ra chính sách sai lệch, không phù hợp, thì hiện nay các cuộc điều tra của Tổng cục Thống kê Quốc gia Ấn Độ được tiến hành hàng năm để cho kết quả sát thực hơn. Thêm vào đó là việc kết hợp với các báo cáo điều tra định kỳ về lực lượng lao động sẽ cho phép ước tính tổng thu nhập quốc dân được tổng hợp hàng năm dựa trên thông tin hiện tại. Bộ Lao động và Việc làm Ấn Độ nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thống kê lao động của khu vực NOE, cũng như thấy rõ sự cần thiết phải xây dựng một cơ sở thống kê toàn diện trên mọi khía cạnh khác nhau của khu vực NOE như một bộ phận không thể tách rời trong hệ thống thống kê quốc gia và đã giao Cục quản lý Lao động thực hiện việc điều tra khảo sát hàng năm về việc làm - thất nghiệp của nền kinh tế. Đặc biệt, trong các cuộc khảo sát mới đây đã tập trung nhiều hơn vào các thông số quan trọng trên thị trường lao động của khu vực NOE như việc làm, kỹ năng, tay nghề…Ngoài ra, cải cách hành chính thuế ở Ấn Độ cũng đang được tiến hành mạnh mẽ thông qua các biện pháp về ứng dụng chính phủ điện tử, AI, bộ dữ liệu lớn, cũng như các biện pháp nâng cao tiêu chuẩn chất lượng các sản phẩm thống kê quốc gia, thống kê bang… nhằm nắm bắt, đánh giá chính xác hơn về khu vực NOE.1.3. Thái LanKhu vực kinh tế chưa được quan sát giữ vai trò quan trọng đặc biệt ở Thái Lan. Quốc gia này hiểu rõ những khó khăn trong việc đo lường hoạt động của khu vực kinh tế khó nắm bắt này và những tác động ảnh hưởng cũng như những hậu quả mà khu vực này có thể gây ra cho khu vực chính thức, nhất là những tác động đến bất bình đẳng và giảm nghèo. Hơn nữa, khu vực NOE quy mô lớn có thể bóp méo các chỉ số chính thức, dẫn đến việc phân bổ nguồn lực công không hiệu quả. Những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến sự mở rộng quy mô kinh tế NOE có thể bao gồm gánh nặng thuế cao, những yêu cầu đóng góp an sinh xã hội lớn, sự phức tạp của hệ thống thuế, cường độ và tính phức tạp của các quy định hành chính… Dưới giác độ này, sự hiểu biết, đo lường quy mô và sự đóng góp của khu vực NOE đối với đất nước rất quan trọng đối với việc xây dựng chính sách bao trùm phát triển kinh tế, xã hội.Các chuyên gia, các nhà kinh tế và quản lý Thái Lan cho rằng, việc ước tính quy mô và những tác động của NOE là một nhiệm vụ khó khăn, đầy thách thức và đất nước đã cố gắng phát triển một số phương pháp, kỹ thuật đo lường và hoàn chỉnh các chỉ số để đo lường NOE. Các phương pháp so sánh các dữ liệu khác nhau từ nhiều nguồn và sử dụng các cách tiếp cận khác nhau để ước tính đo lường NOE. Mặc dù cách tiếp cận khác nhau dẫn đến các kết quả khác nhau về NOE nhưng tất cả đều đã khẳng định tầm quan trọng của NOE đối với đất nước, cả về kinh tế và phúc lợi xã hội, cụ thể: - Phải tăng cường nhận biết và quan sát về khu vực NOE. Ở Thái Lan, mặc dù không có một định nghĩa thống nhất về khu vực NOE nhưng khi nói đến khu vực này, người ta thường đề cập đến các giao dịch kinh tế không rõ ràng quan sát hay nhận biết được. Trong việc xác định khu vực NOE, các nghiên cứu trước đây thường xem xét một bộ các đặc điểm, tiêu chí cụ thể như sự tồn tại của giao dịch thị trường, tính hợp pháp của sản xuất, sắp xếp, quá trình phân phối hàng hóa hoặc dịch vụ. Đo quy mô của khu vực NOE thậm chí còn trở nên khó khăn hơn khi có sự thay đổi trong tình trạng hợp pháp, ví dụ, một số hoạt động như cờ bạc và mại dâm trước đây bị coi là bất hợp pháp thì hiện được coi là hợp pháp chẳng hạn. Các tiêu chí được sử dụng để xác định khu vực NOE phụ thuộc vào quan điểm của các chuyên gia là nên tập trung vào kinh tế, xã hội hay dựa trên các khía cạnh chính trị. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nổi lên vấn đề việc làm và tiêu chí sắp xếp việc làm không hợp pháp và không tuân thủ các quy định pháp lý được sử dụng phổ biến trong đo lường khu vực NOE. - Phải đánh giá được những tác động tích cực hay tiêu cực và những lợi ích, bất lợi của khu vực NOE. Thái Lan nhận thấy, khu vực NOE là một thành tố quan trọng của nền kinh tế và có thể tạo ra cả hai ngoại ứng tích cực và tiêu cực đến nền kinh tế. Các nghiên cứu trước đây đã đề cập nhiều đến lợi ích kinh tế, xã hội của khu vực NOE. Tăng việc làm không chính thức có thể giúp người lao động bị sa thải tự tạo ra thu nhập trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, do đó giảm bớt phụ thuộc vào trợ cấp của chính phủ. Hơn thế nữa, các hoạt động của khu vực NOE đã làm giảm áp lực tiền lương trong khu vực chính thức và qua đó giúp duy trì năng lực cạnh tranh cho khu vực này. Tuy nhiên, khu vực NOE cũng bộc lộ những nhược điểm đáng lưu ý: (i) NOE gây ra sự biến dạng trong thu thuế và có thể dẫn đến chính phủ áp thuế suất cao hơn đối với khu vực chính thức để đảm bảo duy trì nguồn thu; (ii) Lao động ở khu vực NOE thường nhận được mức lương thấp hơn và điều kiện làm việc kém hơn so với làm việc trong khu vực chính thức, (iii) Các chỉ tiêu kinh tế thông thường không bao phủ được khu vực NOE có thể ảnh hưởng xấu đến chất lượng phân tích và đánh giá kinh tế và do đó có thể dẫn đến những sai lệch trong xây dựng chính sách.- Phải lựa chọn áp dụng các phương pháp đo lường phù hợp, khoa học và hiệu quả đối với khu vực NOE để xây dựng và thực thi chính sách hiệu quả, quản lý, bao phủ được khu vực này cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung. Ngân hàng Trung ương Thái Lan đã sử dụng nhiều cách tiếp cận và nhiều phương pháp khác nhau để đo lường, ước lượng về quy mô của khu vực NOE. Với phương pháp tiếp cận trực tiếp, họ sử dụng các biến đại diện (proxy variables) như (i) số lượng lao động ngoài hệ thống an sinh xã hội; (ii) Tài khoản riêng của người lao động. Đối với biến thứ nhất, quan sát và dựa trên số liệu thống kê của Bộ Lao động Thái Lan cho thấy, trong gần hai thập kỷ qua, số lượng người được bảo hiểm ở Thái Lan tiếp tục tăng từ 22,5% (6,9 triệu) năm 2002 đến 30,6% (11,6 triệu) năm 2018; quy mô của khu vực NOE là khoảng ba phần tư và có xu hướng giảm dần theo thời gian. Đối với biến thứ hai là sử dụng biến tài khoản riêng của người lao động để đo lường, với nghĩa là người lao động sử dụng tài khoản riêng khi họ có ý định che giấu doanh số bán hàng hoặc doanh thu để tránh phải trả thuế. Dựa trên biến này, thì quy mô của khu vực NOE cũng xấp xỉ quy mô lao động của khu vực chính thức với khoảng một nửa tổng số việc làm của nền kinh tế.Một phương pháp trực tiếp khác được sử dụng là phương pháp Khảo sát vi mô (Micro Surveys) do Tổng cục Thống kê Quốc gia Thái Lan (NSO) thực hiện, theo đó, khu vực NOE của Thái Lan bao gồm những người lao động không được bảo hiểm và không đủ điều kiện để được hưởng các chế độ an sinh xã hội. Kết quả khảo sát năm 2018 của NSO Thái Lan cho thấy, khoảng 21,0 triệu lao động, tương đương 55,3% tổng số việc làm, tham gia vào khu vực NOE, với tỷ lệ lao động nam và nữ không khác nhau nhiều và tỷ lệ việc làm khu vực NOE có xu hướng giảm xuống dưới 50% trong giai đoạn 2014 - 2018.Các phương pháp gián tiếp ước tính quy mô NOE cũng được sử dụng ở Thái Lan, đó là cách tiếp cận dựa trên (i) sự khác biệt giữa chi tiêu và thu nhập quốc dân; (ii) mức tiêu thụ điện năng; (iii) cách tiếp cận tiền tệ dựa trên tỷ lệ gửi tiền mặt (Currency Ratio) và nhu cầu tiền tệ (Currency Demand Approche) với việc áp dụng các mô hình lượng hóa... Tóm lại, tư duy và phương pháp quản lý của Thái Lan đối với khu vực NOE là tập trung các nỗ lực để tiến tới sự nhận thức, hiểu biết rộng rãi nhất của xã hội về khu vực kinh tế này, đưa ra và áp dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau để phân tích, cả trực tiếp và gián tiếp, kết hợp khảo sát điều tra với sử dụng các mô hình kinh tế lượng nhằm nắm bắt, đánh giá một cách tốt nhất về quy mô và tác động của khu vực NOE tới toàn bộ nền kinh tế. Thực hiện các nghiên cứu sâu hơn để có thể phát triển các phương pháp, công cụ mới nhằm đo lường quy mô của khu vực NOE, trong khi phương pháp điều tra vi mô với thông tin chuyên sâu phong phú được coi là một cách tiếp cận đúng đắn và thiết thực vào thời điểm hiện tại.Ngoài khía cạnh phương pháp luận, sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa chính phủ với các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan cũng cần được nhấn mạnh để mở đường cho sự hiểu biết tốt hơn về hoạt động của khu vực NOE, trong quan hệ tác động qua lại với khu vực kinh tế chính thức, quan sát được, để xây dựng và thực thi các chính sách phù hợp nhằm thu hẹp quy mô khu vực NOE, đồng thời duy trì và phát huy những tác động tích cực mà khu vực này có thể tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế và cho cộng đồng.
- Một số bài học rút ra cho Việt Nam
Thứ nhất, cần có nhận thức và hiểu biết cũng như mối quan tâm sâu sắc hơn của các cơ quan chính phủ và các nhà làm chính sách quốc gia đối với khu vực NOE. Từ nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc, Ấn Độ hay Thái Lan, có thể thấy, khu vực NOE có tác động lớn tới nền kinh tế và các nhà làm chính sách các nước đều nỗ lực tìm ra các biện pháp chính sách để làm sao có thể đưa vào quan sát, quản lý khu vực NOE nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chung. Nếu không có hiểu biết sâu sắc về khu vực NOE, không hiểu rõ tầm quan trọng, nguyên nhân và những tác động của khu vực NOE tới nền kinh tế trên tổng thể thì không thể có chính sách phù hợp và hiệu quả cho việc quản lý toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, điều đầu tiên là những nỗ lực mà chính phủ các nước nêu trên đã làm là nghiên cứu, tìm hiểu rõ khu vực NOE, tìm ra những nguyên nhân khiến khu vực này tồn tại, mở rộng và đánh giá những tác động của NOE tới mọi mặt đời sống kinh tế xã hội để có thể đưa ra những chính sách bao phủ cả khu vực NOE cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội chung.
Thứ hai, cần có phương thức, biện pháp đo lường, đánh giá phù hợp, khoa học về quy mô và tác động của khu vực NOE đối với nền kinh tế. Chỉ có trên cơ sở dữ liệu được lượng hóa đầy đủ và đảm bảo độ tin cậy, mới có thể đưa vào quản lý, giám sát khu vực NOE một cách thực tế, hiệu quả, thu hẹp quy mô trong khi vẫn đảm bảo khai thác được những lợi thế của khu vực này phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Các chính phủ, trong những nỗ lực của mình, đã áp dụng nhiều phương pháp, sử dụng nhiều thước đo và cách tiếp cận để đo lường quy mô, tác động của NOE tới nền kinh tế, kể cả các cách tiếp cận trực tiếp và gián tiếp, từ việc thực hiện điều tra khảo sát thường niên về việc làm, thất nghiệp, về các chỉ tiêu khác như điều tra doanh nghiệp… đến các phương pháp gián tiếp và ứng dụng các mô hình kinh tế để lượng hóa quy mô NOE trong nền kinh tế thông qua việc xác định chênh lệch giữa chi tiêu và thu nhập quốc dân, tỷ lệ sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế hay thông qua phương pháp nhu cầu tiền tệ.
Thứ ba, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và mở rộng của khu vực NOE, cần xác định được các nguyên nhân chủ quan thuộc về quản lý để thiết kế các biện pháp chính sách phù hợp nhằm chính thức hóa khu vực NOE, hay nắm bắt, quan sát được khu vực NOE - một bộ phận không thể thiếu trong nền kinh tế - để phục vụ cho việc xây dựng và thực thi các chính sách hiệu quả, bao trùm khu vực này, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội... Bởi vì một môi trường quy định chồng chéo, phức tạp, mơ hồ, hiệu lực thi hành kém, sự phức tạp trong luật pháp về thuế và nhũng nhiễu của công chức thuế, pháp luật lao động chưa phù hợp, hệ thống hành chính công năng lực còn hạn chế, tham nhũng, cơ sở hạ tầng thông tin, ứng dụng chính phủ điện tử còn thấp… là những nguyên nhân chủ quan quan trọng dẫn đến sự tồn tại và thậm chí phình to của khu vực NOE.
Thứ tư, kinh nghiệm của các nước nêu trên trong xúc tiến chính thức hóa khu vực NOE hay tăng cường năng lực quản lý NOE là không giống nhau tùy tình hình từng nước, tuy nhiên, có một số phương pháp mà các nước đều cố gắng thực hiện, đó là:
- Cải cách thể chế pháp lý, khuyến khích phát triển khu vực kinh tế chính thức, đã được quan sát. Sở dĩ nên thực hiện nhiệm vụ này vì một khi khu vực kinh tế chính thức trở nên hấp dẫn hơn sẽ hạn chế được quy mô của khu vực NOE. Muốn vậy, các nhà hoạch định chính sách cần cải thiện năng lực quản lý, điều hành, đặc biệt là việc đảm bảo tôn trọng hệ thống pháp luật đồng bộ, toàn diện và đầy đủ, tăng cường pháp chế hợp đồng và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Việc tăng cường các thể chế cơ bản có thể dẫn đến những yêu cầu phải cải cách hệ thống tổ chức và pháp lý. Những cải cách cơ bản này sẽ giúp nâng cao hiệu lực hệ thống thuế, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của các thể chế giám sát chính phủ. Cải cách hệ thống dịch vụ dân sự cũng quan trọng nhằm đảm bảo thực thi pháp luật và giúp cải thiện lòng tin đối với chính phủ... Trong thời đại CMCN 4.0, việc thực hiện chính phủ điện tử, chính phủ số có thể giúp cho việc tăng cường thể chế thị trường ở các nước mới nổi châu Á nêu trên và điều này giúp cho hiệu lực hợp đồng, hệ thống thu thuế và các chỉ tiêu quản lý khác trở nên rõ ràng, minh bạch hơn, sẽ có tác động tích cực tới việc thu hẹp phạm vi NOE…
- Tăng cường khu vực chính thức thông qua các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn đang hoạt động trong khu vực NOE có thể có rất nhiều cách để chính thức hóa được các doanh nghiệp này, đưa vào quan sát thông qua các chiến dịch thông tin đầy đủ và rộng rãi về cải cách chính sách. Những chiến dịch như vậy có thể dẫn tới các thay đổi nhận thức về tầm quan trọng, những lợi ích của việc chính thức hóa hoạt động doanh nghiệp trong việc được cung cấp thông tin thị trường, thủ tục đăng ký và điều kiện tiếp cận dịch vụ công dễ dàng, các khuyến khích và ưu đãi về thuế, hỗ trợ tiếp cận tín dụng, tiếp cận các dịch vụ tài chính, pháp lý, đào tạo…
- Ngoài ra, những cải cách hành chính, điều tiết thuế có thể giảm chi phí vận hành và hoạt động của khu vực kinh tế chính thức, từ đó tạo động lực và tăng niềm tin cho các cơ sở kinh doanh trong khu vực NOE chuyển sang khu vực chính thức.
Tài liệu tham khảo:
[1] Aditi Roy Ghatak (2017), India’s Informal Sector is the backbone of the economy
[2] Bank of Thailand (2019), A better understanding of Thailand’s Informal Secteor
[3] Hailin Chen và Friedrich Schneider (2018), Size and Causes of Shadow Economy in China over 1978-2016: Based on the Currency Demand Method
[4] IMF (2018), Shadow Economies Around the World: What Did We Learn Over the Last 20 Years, WP18/17
[5] Menggen Chen, Shuai Zhang (2020), Measuring the regional non-observed economy in China with nighttime lights
[6] OECD (2015), Economic Outlook for Southeast Asia, China and India: Strenthening Institutional Capacity 2015
[7] Ramana Murthy (2019), Measuring Informal Economy in India - Indian Experience
[8] Thủ tướng chính phủ (2019), Quyết định số 146/QĐ-TTg, ngày 01 tháng 02 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Thống kê khu vực kinh tế chưa được quan sát
[1] Bài viết nằm trong khuôn khổ của Đề án: “Đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế chưa được quan sát trong lĩnh vực Công Thương”.